Bản án 41/2018/HS-ST ngày 19/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 41/2018/HS-ST NGÀY 19/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Q, huyện G, tỉnh Bắc Ninh, Tòa án nhân dân huyện G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 40/2018/TLST- HS ngày 21/9/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2018/QĐXXST- HS ngày 24/9/2018, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1992; STQ: Thôn T, xã Q, huyện L, tỉnh B; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con bà Đỗ Thị T, sinh năm 1953, bị cáo không rõ bố; Có vợ là Hà Thị T, sinh năm 1999, bị cáo có 01 con, sinh tháng 9 năm 2018;

Tiền án: 01 tiền án: Bản án số 41/2013/HSST ngày 27/09/2013 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh B xử phạt T 24 tháng tù, phạt bổ sung 5.000.000 đồng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù, ra trại ngày 01/06/2015. Bị cáo chưa chấp hành xong phần hình phạt bổ sung và án phí.

- Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 27/06/2018 đến ngày 06/7/2018 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 30 phút, ngày 27/6/2018, tại đường đê Hữu Đuống đoạn thuộc thôn C, xã S, huyện G, tỉnh Bắc Ninh, tổ công tác Công an huyện G phối hợp cùng Công an xã S phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ 02 (hai) gói nhỏ đều được bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng từ tay trái T đang cầm, mở ra bên trong đều có lớp giấy màu trắng, trong cùng đều có chứa chất bột màu trắng. T khai nhận, đó là hai gói ma túy T vừa mua về để sử dụng do bản thân T sử dụng chất ma túy. Sau đó, tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra tổ công tác không thu giữ gì khác.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G ra Quyết định trưng cầu giám định số 81, trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B. Tại bản Kết luận giám định số 796/KLGĐMT-PC54 ngày 27/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 02 (hai) gói bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng có khối lượng 0,1738 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine.

Heroine là chất ma túy được quy định tại Nghị định số 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính Phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Tại bản cáo trạng số 41/ CTr- VKS- GB ngày 20/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Nguyễn Văn T thừa nhận: Do bản thân là người nghiện chất ma túy nên khoảng 18 giờ 00 phút ngày 27/6/2018 T đi bộ một mình từ nhà T ra đường rồi đi nhờ xe máy của một người đàn ông không quen biết đến xã S, huyện G để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến xã S, T xuống xe đi bộ một mình về phía sau dốc đê gần trạm bơm thôn C, xã S. Tại đây, T gặp một người thanh niên T không quen biết khoảng 30 tuổi, trông giống người nghiện ma túy đang đứng một mình. T lại gần người thanh niên này và hỏi “Bán cho em 400.000 đồng trắng”, (ý T muốn hỏi mua của người thanh niên này 400.000 đồng ma túy), người thanh niên này đồng ý. T liền đưa cho người đàn ông này 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng), người đàn ông cầm lấy tiền của T và đưa lại cho T 02 (hai) gói nhỏ đều được bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng, T hiểu hai gói nhỏ trên là hai gói ma túy nên T cầm lấy bằng tay trái và đi bộ quay về để sử dụng. Đi bộ được một đoạn thì T bị tổ Công tác Công an huyện G cùng Công an xã S phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội giữ nguyên cáo trạng truy tố; Sau khi phân tích hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Văn T từ 18 đến 24 tháng tù và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là mẫu vật hoàn lại sau giám định.

Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Sau khi nghe bản luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát bị cáo T không có ý kiến tham gia tranh luận và không có lời bào chữa. Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn T nhận tội, lời nhận tội của bị cáo phù với lời khai của người làm chứng, người liên quan, tang vật thu hồi được, kết luận giám định của cơ quan chuyên môn và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở để khẳng định ngày 27/6/2018 T có hành vi tàng trữ trái phép 02 (hai) gói ma túy có tổng khối lượng 0,1738 gam, loại ma túy: chất Heroine. Hành vi của Nguyễn Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gđã truy tố.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến khách thể được luật hình sự bảo vệ, đó là chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Hành vi của bị cáo không những gây hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân mà còn là nguyên nhân phát sinh ra các loại tội phạm khác. Do vậy, cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, HĐXX nhận định: Bị cáo T trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay đều có thái độ khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của bản thân. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 của của Bộ luật hình sự mà bị cáo được hưởng khi lượng hình.

Về tình tiết tăng nặng: Bản thân T có 01 tiền án, ngày 27/09/2013 Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh B xử phạt T 24 tháng tù, phạt bổ sung 5.000.000 đồng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, ra trại ngày 01/06/2015 nhưng chưa chấp hành xong phần hình phạt bổ sung và án phí. Do đó lần phạm tội này của T bị coi là tái phạm và bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xét bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, lần phạm tội này bị coi là tái phạm, điều đó thể hiện ý thức coi thường pháp luật và khả năng khó giáo dục cải tạo của bị cáo, do vậy cần có mức án cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án gồm: Là số ma túy còn lại sau giám định nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Nguyễn Văn T vào ngày 27/6/2018. Do T không biết tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nào khác của người đàn ông nói trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G chưa có đủ căn cứ để điều tra làm rõ. Do vậy, HĐXX không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Xét các ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về xử lý vật chứng, về hình phạt bổ sung là có cơ sở nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Văn T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được trừ thời hạn tạm giữ tạm giam từ ngày 27/6/2018 đến ngày 06/7/2018.

Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Nguyễn Văn T kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm chấp hành án phạt tù.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư niêm phong, mặt trước có chữ: Mẫu vật còn lại sau giám định kèm KLGĐ số 796/KLGĐMT- PC54 ngày 27/6/2018 của PC 54. Mặt sau có chữ ký của giám định viên và dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Ninh.

Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2018/HS-ST ngày 19/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:41/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Bình - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về