Bản án 41/2018/HSST ngày 13/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ QUỐC – TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 41/2018/HSST NGÀY 13/003/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2018/HSST ngày 24 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lƣu Phi H, sinh năm 1973

Tại: Ninh Hòa, Khánh Hòa

Nơi ĐKHKTT: Thôn P, xã N, thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa.

Chổ ở: Thôn V, xã N, thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không. Trình độ văn hóa: 2/12. Nghề nghiệp: Làm nông.

Cha: Lưu H, (sống); Mẹ: Nguyễn Thị M, (sống). Vợ: Phùng Thị Tuyết D, sinh năm 1978

Con: Lưu Thị Thúy H, sinh năm 1999

Anh, em ruột và cùng cha khác mẹ: 05 người, lớn nhất sinh năm 1976, nhỏ nhất sinh năm 1989.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt từ ngày 13/11/2017.

(Bị cáo có mặt tại phiên toà) Ngƣời bị hại: Bà Trương Thị Ng, sinh năm 1959

Địa chỉ: Ấp SC, xã CD, huyện Phú Quốc, Kiên Giang

(Bà Nguyệt có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đầu tháng 8/2015, Nguyễn Hữu T rủ Lê A và Lưu Phi H đi cưa trộm cây trầm hương (Dó bầu) của bà Trương Thị Ng ở ấp SC, xã CD, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang thì cả ba đồng ý. T, Lê A và H dùng xe mô tô hiệu Dream, biển số 68P5- 3029 của Lê A đã thực hiện 04 lần cưa trộm cây lấy được gồm: 03 kg mắc kiến cây trầm hương đã đẽo chưa thành phẩm, 4,5 kg mắc kiến của cây trầm hương chưa đẽo và 2,8 kg mắc kiến của cây trầm hương đã đẽo thành phẩm, mang về cất giấu tại nhà trọ QH thuộc khu phố 10, thị trấn DĐ, huyện Phú Quốc. Đến khoảng 18 giờ ngày 05/9/2015, T, Lê A và H tiếp tục đi cưa trộm cây trầm hương của bà Ng, lấy được 01 bao tải mắc kiến cây trầm hương loại bao tải 50 kg (không thu hồi được) thì bị phát hiện và T bị bắt giữ còn Lê A và Lưu Phi H bỏ trốn. Đến ngày 13/11/2017, Lưu phi H bị bắt theo lệnh truy nã.

Về tang vật của vụ án: Đã được Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc xét xử và giải quyết tại bản án hình sự sơ thẩm số 12/2016/HSST ngày 26/01/2016.

Tại bản kết luận về giá trị tài sản trong tố tụng hình sự thì tổng giá trị tài sản trộm cắp được thu giữ có giá trị là 25.850.000đồng.

Tại bản cáo trạng số 10/CT-VKSPQ ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc đã truy tố bị cáo Lưu Phi H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đã kết luận hành vi của bị cáo Lưu Phi H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 BLHS năm 1999 xử phạt Lưu Phi H từ 18 tháng đến 24 tháng.

- Về trách nhiệm dân sự và tang vật của vụ án: Đã được Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc xét xử và giải quyết tại bản án hình sự sơ thẩm số 12/2016/HSST ngày 26/01/2016.

Bị cáo không tranh luận gì đối với Kiểm sát viên tại phiên tòa. Lời nói sau cùng của bị cáo là ăn năn hối cải, biết việc làm của bị cáo là không đúng quy định của pháp luật, xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan cảnh sát Điều tra công an huyện Phú Quốc và Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi và quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Lưu Phi H khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng mà Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc truy tố là vào năm 2015 cùng đồng bọn đã lén lút vào vườn của bà Nguyệt trộm cắp cây trầm hương nhiều lần và dùng xe mô tô Dream, biển số kiểm soát 68P5-3029 của Lê A làm phương tiện vận chuyển, khi bị phát hiện bị cáo đã bỏ trốn gây khó khăn cho việc điều tra và bị bắt theo lệnh truy nã.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản kết luận về giá trị tài sản trong tố tụng hình sự thì tổng giá trị tài sản trộm cắp được thu giữ có giá trị là 25.850.000đồng.

Với các tình tiết đã được chứng minh tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lưu Phi H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

Khoản 1 Điều 138 BLHS quy định:

“Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo trong vụ án: Hành vi của bị cáo Lưu Phi H đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản của người khác một cách trái pháp luật, đã gây ảnh hưởng về kinh tế đối với gia đình bà Ng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương và gây hoang mang trong dư luận quần chúng nhân dân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nhân thân bị cáo trước đây đã có một tiền án về tội gây rối trật tự công cộng, bị cáo thực hiện việc trộm cắp 04 lần nên cần áp dụng điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999 là phạm tội nhiều lần để xử bị cáo một mức án nghiêm nhằm cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời phòng ngừa chung cho xã hội đối với loại tội phạm này.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999, Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình cho bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự và xử lý tang vật trong vụ án đã được giải quyết tại bản án hình sự sơ thẩm số 12/2016/HSST ngày 26/01/2016 của Toà án nhân dân huyện Phú Quốc nên không xem xét lại.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[6] Báo quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lưu Phi H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng: Khoản 1 Điều 138 BLHS; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 BLHS năm 1999.

Xử phạt: Lưu Phi H: 24 (hai mươi bốn) tháng. Thời hạn tù tính từ ngày 13/11/2017.

3. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2018/HSST ngày 13/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:41/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phú Quốc - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về