Bản án 41/2017/HSST ngày 16/11/2017 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 41/2017/HSST NGÀY 16/11/2017 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 16 tháng 11 năm 2017, tại hội trường Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2017/HSST ngày 18 tháng 10 năm 2017 đối với:

Bị cáo: Lê Văn Đ (Lê Thành Đ), sinh năm 1978, tại tỉnh Tây Ninh; nơi ĐKHKTT: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Thợ hớt tóc; trình độ văn hoá: 3/12; dân tộc: Kinh; con ông Đặng Văn B (chết) và bà Lê Thị T, sinh năm 1950; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 50/2007/HSST ngày 12/7/2007 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh xử Phạt   Lê Văn Đ (Lê Thành Đ) 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104 của Bộ luật Hình sự; bị bắt tạm giữ ngày12/8/2017 và tạm giam cho đến nay.

Bị cáo có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Thanh H là Luật sư thuộc Văn phòng luật sư Nguyễn Thanh H, Đoàn luật sư tỉnh Tây Ninh. (có mặt)

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Mộng T, sinh năm 1989 (chết).

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị Thùy D, sinh năm1968 và ông Nguyễn Minh K, sinh năm 1865 là cha mẹ của chị T.

Cùng trú tại địa chỉ: Số 33 đường C, khu phố H, phường N, thành phố TN,tỉnh Tây Ninh.

Ông K đã ủy quyền cho bà D theo văn bản ủy quyền ngày 13/9/2017. Bà Dcó mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị T, sinh năm 1950. Địa chỉ: ấp L, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án Đ tóm tắt như sau:

Bị cáo Lê Văn Đ và chị Nguyễn Thị Mộng T có mối quan hệ tình cảm yêu thương. Do nghe tin chị T quen biết với anh Nguyễn B trú tại  ấp Tân Xuân, xã Tân Phú, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh nên Đ nghi ngờ và ghen tuông.

Ngày 12/8/2017, sau khi uống rượu, đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Đ điểu khiển xe mô tô biển số 70G1-377.97 đến siêu thị Auchan thuộc khu phố 3, Phường X, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh để tìm chị T. Khi đi, Đ mang theo 01 (một) con  dao bằng kim loại dài  33cm, nơi  rộng nhất 4,6cm. Đến  siêu thị Auchan, Đ để xe ngoài cổng rồi vào trước cổng siêu thị thì thấy chị T đang đi cùng anh B và con chị T ra khỏi siêu thị, chị T giao con cho anh B bế lên xe ô tô, còn chị đang đứng quay mặt vào trong xe ô tô. Lúc này, Đ đi đến vỗ vào vai chị T và hỏi “Mày hết chối chưa?” đồng thời dùng dao đâm vào lưng chị T 02 nhát hướng từ trên xuống, chị T xoay người lại đẩy Đ ra thì Đ tiếp tục dùng dao đâm03 nhát nữa vào vùng bụng và ngực của chị T. Lúc này, anh B đạp mở cánh cửa buồng lái xe ô tô trúng Đ và dùng cây sắt đánh Đ văng con dao xuống đất, sau đócùng bảo vệ siêu thị khống chế Đ giao cho Công an xử lý. Chị T được đưa đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tây Ninh cấp cứu nhưng do vết thương quá nặng, đã tử vong.

Bản Kết luận giám định số 118/PY-2017 ngày 05/9/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Nguyễn Thị Mộng T tử vong do đa vết thương xuyên thấu lưng, thấu bụng làm thủng phổi phải, thủng gan, rách thanh mạc đại tràng do vật sắc nhọn gây nên.

Về bồi thường thiệt hại: Đại diện hợp pháp của bị hại là bà Nguyễn ThịThùy D và ông Nguyễn Minh K yêu cầu bị cáo Đ bồi thường các khoản:

+ Chi phí mai táng: 41.250.000 đồng;

+ Chi phí cấp cứu tại bệnh viện: 5.500.000 đồng;

+ Bồi thường tổn thất tinh thần: 30.000.000 đồng. Tổng cộng các khoản là 76.750.000 đồng.

Mẹ bị cáo là bà Lê Thị đã bồi thường cho bà D số tiền 10.000.000 đồng(mười triệu).

Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ:

+ 01 (một) con dao bằng kim loại dài 33cm, nơi rộng nhất 4,6cm;

+ 01 (một) áo thun, màu trắng;

+ 01 (một) quần sọt, màu xám;

+ 01 (một) áo dài tay, dạng đồ bệt, màu xanh nâu đen xám;

+  01  (một)  thanh  sắt  cọng  nhựa  loại  dáng  dẹp,  màu  đen,  kích  thước80x03cm;

+ 01 (một) đôi dép da màu nâu;

+ 01 (một) mũ bảo hiểm, màu xanh;

+ 01 (một) áo thun bông, màu đỏ đen dính màu nâu đỏ;

+ 01 (một) xe mô tô biển số 70G1-377.97, số máy: JA27E0021969, sốkhung: 2703DY022195,

+ 01 giấy chứng nhận đăng ký mô tô xe máy cấp ngày 09/02/2017 do LêVăn Đ đứng tên.

+ Tòa án đã thu giữ: 01 (một) bản chính Giấy chứng đăng ký xe mô tô, xe máy tên chủ xe Lê Văn Đ, biển số đăng ký: 70G1-377.97.

Bản Cáo trạng số: 28/QĐ-KSĐT-P2 ngày 17 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Lê Văn Đ (Lê Thành Đ) về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh - Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn Đ (Lê Thành Đ) phạm tội “Giết người”;

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93, điểm b, p khoản 1 Điều 46, Điều 34 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn Đ (Lê Thành Đ) tù chung thân.

- Về bồi thường thiệt hại và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 591 Bộ luật dân sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự buộc bồi thường và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Luật sư Nguyễn Thanh H bào chữa cho bị cáo trình bày: Đồng ý với cáo trạng truy tố bị cáo Đ về tội “Giết người” theo Điều 93 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, Luật sư cho rằng truy tố bị cáo Đ phạm tội theo quy định điểm n khoản 1 Điều 93 của Bộ luật Hình sự là không có căn cứ; vì bị cáo Đ giết chị T là có nguyên cớ do yêu đương, ghen tuông dẫn đến phạm tội. Do vậy, Luật sư cho rằng bị cáo Đ chỉ phạm tội theo quy định tại khoản 2 Điều 93 của Bộ luật Hình sự có khung hình phạt từ 07 đến 15 năm. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khung hình phạt trên đối với bị cáo Đ và cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thật thà khai báo, ăn năn hối cải; đã thuyết phục gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình bị hại.

Bị cáo Đ không có ý kiến tranh luận.

Đại diện hợp pháp của bị hại – bà Nguyễn Thị Thùy D trình bày ý kiến: Yêu cầu bị cáo Đ bồi thường số tiền còn lại 66.750.000 đồng và yêu cầu xét xử bị cáo đúng quy định pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị T (mẹ bị cáo Đ) cho rằng hoàn cảnh gia đình rất khó khăn nên bà chỉ bồi thường cho gia đình bị hại10.000.000 đồng, số tiền này bà không yêu cầu bị cáo Đ hoàn lại.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đphạm tội theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 93 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Đ hưởng mức án nhẹ nhất để có điều kiện về chăm lo cho mẹ già.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã Đ thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, lời trình bày của bị cáo, ý kiến của Kiểm sát viên, ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về tố tụng: Các Quyết định của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tây Ninh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh;  Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai của bị cáo Lê Văn Đ (Lê Thành Đ) tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ để xác định:

Vào khoảng 20 giờ, ngày 12/8/2017, tại siêu thị Auchan, thuộc khu phố 3, phường X, thành phố Tây Ninh, bị cáo Đ đã dùng dao đâm liên tục nhiều nhát vào người chị T dẫn đến đa vết thương xuyên thấu lưng, thấu bụng làm thủng phổi phải, thủng gan, rách thanh mạc đại tràng làm cho chị T tử vong.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Văn Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự.

Chị T và bị cáo không phải là vợ chồng, không có mâu thuẫn nhưng chỉ vì nghi ngờ ghen tuông mà bị cáo đã dùng dao đâm nhiều nhát vào người chị T làm chị T tử vong là bị cáo xem thường những quy tắc cuộc sống, xem thường tính mạng của người khác, xem thường pháp luật. Bị cáo tạo ra nguyên cớ để gây án tước đoạt mạng sống của chị T. Hành vi trên của bị cáo thể hiện tính chất côn đồ nên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo theo quy định điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng bị cáo phạm tội theo quy định tại khoản 2 Điều 93 của Bộ luật Hình sự là không có căn cứ và không đúng pháp luật.

[3] Vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo gây đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng của con người là vốn quý của xã hội Đ pháp luật bảo vệ, gây đau thương cho gia đình chị T, gây án ở siêu thị là chỗ đông người, gây mất trật tự trị an, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân nên cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa tội phạm.

Trong lượng hình có xem xét nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại khắc phục một phần hậu quả cho gia đình bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[4] Về bồi thường thiệt hại:

Tại tòa, đại diện hợp pháp cho bị hại bà D giữ nguyên yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 76.750.000 đồng, gồm:

- Về chi phí mai táng cho chị T số tiền 41.250.000 đồn;

- Về chi phí cấp cứu tại bệnh viện: 5.500.000 đồng;

- Về bồi thường tổn thất tinh thần: 30.000.000 đồng (trong đó bồi thườngcho ông K và bà D, mỗi người 15.000.000 đồng).

Bị cáo Đ chấp nhận bồi thường theo yêu cầu của bà D nên ghi nhận, gia đình bị cáo đã bồi thường Đ 10.000.000 đồng (bà D nhận ngày 06/11/2017), hiện còn phải bồi thường 66.750.000 đồng.

[5] Về vật chứng:

Chiếc xe mô tô biển số 70G1-377.97 và bản chính Giấy chứng nhận đăng ký xe do bị cáo Đ là chủ sở hữu không liên quan đến vụ án nên hoàn trả cho bị cáo nhưng tạm giữ tại cơ quan Thi hành án dân sự để đảm bảo thi hành án.

Các vật chứng khác không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn Đ (Lê Thành Đ) phạm tội “Giết người”.

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 34 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Văn Đ (Lê Thành Đ) tù chung thân. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 12/8/2017.

2. Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 591 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Lê Văn Đ (Lê Thành Đươc) bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn Thị Thùy D, ông Nguyễn Minh K số tiền 66.750.000 đồng (sáu mươi sáu triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo chưa thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi đối với số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự;  Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) con dao bằng kim loại dài 33cm, nơi rộng nhất 4,6cm;

+ 01 (một) áo thun, màu trắng;

+ 01 (một) quần sọt, màu xám;

+ 01 (một) áo dài tay, dạng đồ bệt, màu xanh nâu đen xám;

+  01  (một)  thanh  sắt  cọng  nhựa  loại  dáng  dẹp,  màu  đen,  kích  thước80x03cm;

+ 01 (một) đôi dép da màu nâu;

+ 01 (một) mũ bảo hiểm, màu xanh;

+ 01 (một) áo thun bông, màu đỏ đen dính màu nâu đỏ;

Tuyên trả cho bị cáo Lê Văn Đ (Lê Thành Đ):

+ 01 (một) xe mô tô biển số 70G1-377.97, số máy: JA27E0021969, sốkhung: 2703DY022195,

+ 01 (một) bản chính Giấy chứng đăng ký xe mô tô, xe máy tên chủ xe LêVăn Đ, biển số đăng ký: 70G1-377.97.

Cơ quan Thi hành án dân sự tạm giữ xe mô tô và giấy chứng nhận đăng kýxe để đảm bảo thi hành án.

Hiện Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh đang quản lý tất cả vật chứng trên.

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn) tiền án phíhình sự sơ thẩm và 3.337.000 đồng (ba triệu ba trăm ba mươi bảy nghìn đồng)tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Báo cho bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1046
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2017/HSST ngày 16/11/2017 về tội giết người

Số hiệu:41/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về