Bản án 41/2017/DS-ST ngày 11/08/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 41/2017/DS-ST NGÀY 11/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 11 tháng 8 năm 2017 tại Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 58/2017/TLST-DS ngày 17 tháng 5 năm 2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2017/QĐXXST- DS ngày 12 tháng 7 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 42/2017/QĐST-DS ngày 27 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần VNTV

Địa chỉ trụ sở chính: Tầng 1-7, Tòa nhà TĐ, số 72 phố THĐ, phường THĐ, quận HK, thành phố HN.

Người đại diện theo pháp luật: Ông NCD – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông LHT – Chức vụ: T phòng Thu hồi nợ pháp lý kiêm Quản lý Pháp chế cho Phòng An ninh và Phòng Kiểm soát Gian lận, Phòng thu hồi nợ Pháp lý, Trung tâm thu hồi nợ - Khối tín dụng dụng tiêu dùng – Ngân hàng Thương mại cổ phần VNTV(Theo văn bản ủy quyền số 18/2017/UQ-CT ngày 13/3/2017).

Địa chỉ chi nhánh: Số 165-167-169 HN, phường NTB, Quận 1, thành phố HCM.

Ông LHT ủy quyền lại cho ông DTT, sinh năm 1979 (Theo văn bản ủy quyền số 217/2017/UQ-GĐK-TDTD ngày 01/6/2017), có mặt.

Địa chỉ: Số nhà 544 đường CMTT, phường PT, thành phố BR, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, có mặt.

2. Bị đơn: Ông LQT, sinh năm 1979, vắng mặt.

Địa chỉ: Số nhà 07, Tổ 1, khu phố PA, thị trấn PB, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10 - 5 - 2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần VNTV- ông DTT trình bày:

Ngày 11/9/2014, ông LQT ký hợp đồng tín dụng số 20140929-500001-0025 với Ngân hàng Thương mại cổ phần VNTV(Ngân hàng) vay số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), với mức lãi suất 60%/năm tức là 5%/tháng tính theo dư nợ gốc trả giảm dần, mục đích để tiêu dùng cá nhân, hình thức tín chấp, không có thế chấp tài sản đảm bảo.

Theo thỏa thuận tại hợp đồng, ông T có trách nhiệm thanh toán số tiền 30.873.000đ (Hai mươi triệu đồng) (gồm cả tiền gốc và tiền lãi), cụ thể:

+ Tiền gốc: 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng)

+ Tiền lãi: 10.873.000đ (Mười triệu tám trăm bảy mươi ba nghìn đồng)

+ Thời hạn trả chậm trong 18 tháng (18 kỳ) tức là tính từ ngày 30/9/2014 đến ngày 01/4/2016 sẽ trả hết nợ. Theo đó 17 tháng đầu mỗi tháng trả số tiền 1.711.000đ (Một triệu bảy trăm mười một nghìn đồng); tháng cuối cùng trả 1.786.000đ (Một triệu bảy trăm tám mươi sáu nghìn đồng). Thanh toán vào ngày 01 hàng tháng bắt đầu thực hiện vào ngày 01/11/2014.

Thực hiện hợp đồng, ông T đã nhận đủ số tiền tiêu dùng cá nhân và đã thanh toán cho Ngân hàng Thịnh Vượng 04 kỳ với số tiền 6.844.000đ (Sáu triệu tám trăm bốn mươi bốn nghìn đồng), trong đó tiền gốc là 3.025.909đ, tiền lãi là 3.818.091đ. Kể từ ngày 05/3/2015 ông T không thanh toán bất cứ khoản tiền nào cho Ngân hàng Thịnh Vượng dù Ngân hàng đã dùng nhiều biện pháp để nhắc nhở.

Tổng số tiền ông LQT còn nợ Ngân hàng Thương mại cổ phần VNTVlà 24.029.000đ (Hai mươi bốn triệu không trăm hai mươi chín nghìn đồng). Tuy nhiên xét hoàn cảnh khó khăn của ông T nên nay Ngân hàng Thương mại cổ phần VNTVchỉ yêu cầu ông LQT thanh toán cho Ngân hàng số tiền là 16.974.091đ (Mười sáu triệu chín trăm bảy mươi bốn nghìn không trăm chín mươi mốt đồng) và tiền lãi phát sinh do chậm thi hành án theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 đến khi thanh toán hết nợ.

Ngân hàng Thịnh Vượng chỉ yêu cầu một mình ông LQT có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng, do ông T vay với mục đích tiêu dùng cá nhân nên không liên quan đến cá nhân khác.

Đối với ông LQT, quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng để ông T thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự; đã tiến hành tống đạt, niêm yết các thông báo hoà giải, giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử để tham gia phiên toà nhưng ông T đều vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng quy định pháp luật.

Đối với các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình còn bị đơn không chấp hành đúng quy định pháp luật nên xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định.

Về nội dung tranh chấp: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng với ông LQT.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng: Ngân hàng Thương mại cổ phần VNTVchấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Ông LQT đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng đều vắng mặt không có lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt ông LQT theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng, thì quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các bên là tranh chấp hợp đồng tín dụng, không có mục đích lợi nhuận được ký kết giữa các bên nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Xuyên Mộc theo quy định tại Điều 26, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

 [3] Về nội dung yêu cầu tranh chấp của đương sự:

Qua lời khai của đại diện nguyên đơn và những chứng cứ do nguyên đơn cung cấp đã đủ cơ sở xác định: giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần VNTVvà ông LQT có quan hệ hợp đồng tín dụng với nhau là đúng, Toà án đã căn cứ vào lời khai, các chứng cứ do đại diện nguyên đơn cung cấp và những tài liệu chứng cứ khác được Toà án thu thập theo thủ tục tố tụng dân sự làm căn cứ giải quyết vụ án.

Xét giấy đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng hợp đồng tín dụng số 20140929- 500001-0025 ngày 11/9/2014 được ký kết giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần VNTVvà ông LQT, theo đó Ngân hàng Thịnh Vượng cho ông T vay số tiền vay số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), với mức lãi suất 60%/năm, lãi và gốc được trả vào ngày 01 hàng tháng với số tiền 1.711.000đ (Một triệu bảy trăm mười một nghìn đồng), bắt đầu thực hiện vào ngày 01/10/2014 là có thật. Ông T đã nhận đủ số tiền vay ngày 30/9/2014 theo phiếu phê duyệt của Vpbank. Sau khi vay, ông T đã thanh toán cho Ngân hàng Thịnh Vượng được 04 kỳ với số tiền 6.844.000đ (Sáu triệu tám trăm bốn mươi bốn nghìn đồng), trong đó tiền gốc là 3.025.909đ, tiền lãi là 3.818.091đ. Kể từ ngày 05/3/2015 ông T không thanh toán bất cứ khoản tiền gốc và lãi nào cho Ngân hàng Thịnh Vượng nên ông T đã vi phạm hợp đồng đã ký kết giữa hai bên. Số tiền ông T còn nợ Ngân hàng là 24.029.000đ (Hai mươi bốn triệu không trăm hai mươi chín nghìn đồng). Tuy nhiên xét hoàn cảnh khó khăn của ông T nên nay Ngân hàng Thương mại cổ phần VNTVchỉ yêu cầu ông LQT thanh toán cho Ngân hàng số tiền là 16.974.091đ (Mười sáu triệu chín trăm bảy mươi bốn nghìn không trăm chín mươi mốt đồng) và tiền lãi phát sinh do chậm thi hành án theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 đến khi thanh toán hết nợ, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của Ngân hàng Thịnh Vượng.

Về lãi suất: Hợp đồng tín dụng được ký kết giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần VNTVvà ông LQT có thỏa thuận lãi suất là 60%/năm. Theo quy định tại khoản 1 Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005, lãi suất do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, do vậy mức lãi suất 60%/năm của Ngân hàng Thịnh Vượng là vượt quá quy định pháp luật. Tuy nhiên, kể từ ngày vi phạm hợp đồng lẽ ra ông T phải tiếp tục chịu lãi suất theo quy định đến ngày xét xử sơ thẩm nhưng Ngân hàng Thịnh Vượng không yêu cầu nên Tòa án không xem xét. Ngân hàng TMCP VNTV chỉ yêu cầu ông T thanh toán tiền lãi chậm thi hành án theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 cho đến khi ông T thanh toán hết nợ. Ghi nhận sự tự nguyện của Ngân hàng Thịnh Vượng không yêu cầu tính tiền lãi của khoản vay từ ngày 05/3/2015 đến ngày 11/8/2017.

Về tài sản bảo đảm: Khoản vay giữa Ngân hàng TMCP VNTVvà ông LQT là theo hình thức tín chấp, không có tài sản bảo đảm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Căn cứ theo các Điều 471, 474, 476 Bộ luật dân sự 2005 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng, buộc ông LQT phải có trách nhiệm trả toàn bộ số tiền nợ gốc là 16.974.091đ (Mười sáu triệu chín trăm bảy mươi bốn nghìn không trăm chín mươi mốt đồng) và tiền lãi phát sinh do chậm thi hành án theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 cho đến khi thanh toán hết nợ.

[4] Về án phí: Buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, cụ thể như sau: 16.974.091đ x 5% = 848.704đ (Tám trăm bốn mươi tám nghìn bảy trăm lẻ bốn đồng).

Nguyên đơn được trả lại tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 26, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 471, 474, 476 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần VNTV đối với ông LQT về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Buộc ông LQT phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần VNTV số tiền 16.974.091đ (Mười sáu triệu chín trăm bảy mươi bốn nghìn không trăm chín mươi mốt đồng). Ghi nhận sự tự nguyện của Ngân hàng thương mại cổ phần VNTV về việc không yêu cầu tính tiền lãi tiếp theo kể từ ngày vi phạm hợp đồng 05/3/2015 đến ngày xét xử sơ thẩm 11/8/2017.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả cho bên được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông LQT phải nộp số tiền 848.704đ (Tám trăm bốn mươi tám nghìn bảy trăm lẻ bốn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

- Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vương được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí là 424.352đ (Bốn trăm hai mươi bốn nghìn ba trăm năm mươi hai đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004451 ngày 16/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm, đối với các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thời hạn 15 ngày được tính từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Lụât thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

317
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2017/DS-ST ngày 11/08/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:41/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về