Bản án 407/2020/HS-PT ngày 21/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 407/2020/HS-PT NGÀY 21/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 21/8/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 313/2020/HSPT ngày 09/7/2020 đối với bị cáo Cái Viết S, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3897/2020/QĐXXPT-HS ngày 04/8/2020, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án sơ thẩm số 74/2020/HS-ST ngày 25/5/2020 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Cái Viết S; sinh năm 1987 tại Đắk Lắk; giới tính: nam; nơi đăng ký thường trú, nơi cư trú: 3/10, Ấp 2, xã XTT, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: (không); trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: chạy xe Grab Bike; con ông Cái Viết M và bà Lê Thị P; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con;

Tiền án, tiền sự: (không);

Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Nguyễn Thị Thu H; sinh năm 1991; nơi cư trú: Căn hộ 505, Lô B, chung cư AS, KP5, phường TMT, Q12, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 03/11/2019, bị cáo Cái Viết S điều khiển xe mô-tô biển số 59T2-118.11 đi đến Khách sạn Ánh Phương II, tại số A6 đường Tô Ký, Khu phố 2, phường Trung Mỹ Tây, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, bị cáo thuê Phòng số 503 của Khách sạn ở qua đêm với chị Nguyễn Thị Thu H. Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 04/11/2019, bị cáo thức dậy thì thấy chiếc túi xách của chị H để dưới sàn, cạnh giường nơi chị H đang nằm ngủ. Do vậy, bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của chị H. Bị cáo lục túi xách của chị H, thì thấy bên trong có 02 chiếc nhẫn màu vàng, 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Mobell. Bị cáo lấy 02 chiếc nhẫn bỏ vào trong túi quần bên trái đang mặc và lấy 02 chiếc điện thoại bỏ vào chiếc túi xách mà bị cáo đang đeo. Sau đó, bị cáo để chiếc túi xách của chị H vào vị trí cũ. Khi bị cáo định bỏ đi, thì chị H thức dậy. Chị H tìm không thấy điện thoại của mình nên có hỏi bị cáo, thì bị cáo nói không biết. Chị H tiếp tục vào nhà vệ sinh trong Phòng 503 để tìm tài sản. Lúc này, sợ bị phát hiện nên bị cáo lấy 02 điện thoại để dưới chiếc gối ở trên giường. Sau khi vào nhà vệ sinh tìm nhưng không thấy điện thoại, chị H yêu cầu bị cáo cho kiểm tra túi xách mà bị cáo đang đeo nhưng bị cáo không đồng ý nên đôi bên giằng co với nhau. Trong lúc giằng co, bị cáo bất ngờ dùng bình xịt hơi cay xịt vào mặt chị H, rồi chạy xuống nhà để xe, lấy xe mô-tô định tẩu thoát. Chị H đuổi theo và tri hô. Thấy vậy, nhân viên của khách sạn ngăn không cho bị cáo đi và báo cho Công an phường Trung Mỹ Tây,Quận 12 đến giải quyết. Trong lúc Công an phường Trung Mỹ Tây làm việc với bị cáo ở tại Khách sạn, bị cáo yêu cầu được đi vệ sinh. Sau đó, bị cáo lấy 02 chiếc nhẫn của chị H bỏ vào két nước bồn cầu trong nhà vệ sinh của Phòng 001 nhưng bị lực lượng công an phát hiện.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ được 2 chiếc nhẫn và 2 chiếc điện thoại đã đề cập và giao trả lại cho chị H.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 415/KLĐG ngày 12/11/2019 và Kết luận định giá số 400/KLĐG ngày 05/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 12 xác định trị giá tài sản mà bị cáo chiếm đoạt của chị H như sau:

-01 nhẫn vàng (có đính đá), khối lượng 0,930 chỉ, hàm lượng vàng là 61,34%, có giá 2.389.170đ;

-01 nhẫn vàng (có đính đá), khối lượng 0,978 chỉ, hàm lượng vàng là 61,29%, có giá là 2.512.482đ.

-01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max có giá là 24.500.000đ;

-01 điện thoại di động hiệu Mobell có giá 150.000đ.

Tại Bản cáo trạng 54/CTr-VKS, ngày 20/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 12, đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật hình sự).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 74/2020/HS-ST ngày 25/5/2020 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định như sau:

Tuyên bố bị cáo Cái Viết S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Cái Viết S 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, xử lý vật chứng, quyền kháng cáo của bị cáo.

Ngày 01/6/2020, bị cáo có đơn kháng cáo với nội dung: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã bồi thường thêm cho người bị hại và được người bị hại làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo giải thích và bổ sung kháng cáo như sau: Bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết kháng cáo như sau: Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có căn cứ. Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm. Do vậy, đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên và bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Trong quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2].Trong đơn kháng cáo của bị cáo Cái Viết S, bị cáo không nêu rõ yêu cầu kháng cáo. Tuy nhiên, tại phiên tòa, bị cáo giải thích và bổ sung nội dung kháng cáo đó là bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo. Việc bị cáo bổ sung nội dung kháng cáo là không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận việc xem xét giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo.

[3].Căn cứ lời khai của bị cáo, bị hại, người làm chứng, căn cứ vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác, có cơ sở để xác định:

Vào khoảng 06 giờ 30 phút ngày 04/11/2019, ở tại Phòng số 503 Khách sạn Ánh Phương II, tại số A6 đường Tô Ký, Khu phố 2, phường Trung Mỹ Tây, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Cái Viết S đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Thu H 02 chiếc nhẫn và 02 chiếc điện thoại có trị giá tổng cộng là 29.551.652đ. Khi bị chị H nghi ngờ và phát hiện, bị cáo đã hành hung chị H (bằng cách dùng bình xịt hơi cay xịt vào mặt chị H) để tẩu thoát.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, xâm phạm đến an toàn, trật tự công cộng. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai trái, bị luật pháp nghiêm cấm nhưng vì động cơ vụ lợi, bị cáo vẫn cố ý vi phạm.

Đối chiếu với quy định của pháp luật, có đủ căn cứ kết luận bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo đ khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Bị cáo phạm tội lần đầu; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã được thu hồi giao trả cho bị hại. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có căn cứ.

[4].Về kháng cáo của bị cáo:

Ngoài các tình tiết giảm nhẹ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo không còn có tình tiết giảm nhẹ nào khác. Mức án 2 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng là mức án thấp nhất trong khung hình phạt, là phù hợp với tính chất mức độ vi phạm, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng.

Hành vi của bị cáo có tính chất nghiêm trọng, mức độ nguy hiểm cao: Lợi dụng vào việc quan hệ tình cảm với người khác để trộm cắp; khi bị bị hại phát hiện, ngăn cản, bị cáo không những không dừng lại mà còn hành hung bị hại để tẩu thoát; khi cơ quan công an đến làm việc, bị cáo còn có hành vi tẩu tán tài sản trộm cắp nhằm chối tội. Những tình tiết vừa nêu cho thấy bị cáo là người khó có khả năng tự cải tạo.

Vì các lý do đã nêu, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Việc đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo là có cơ sở.

[5].Về án phí: Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, 1.Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Cái Viết S, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 74/2020/HS-ST ngày 25/5/2020 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Cái Viết S 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

2.Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3.Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4.Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 407/2020/HS-PT ngày 21/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:407/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về