Bản án 407/2019/HS-PT ngày 25/09/2019 về tội gá bạc và đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 407/2019/HS-PT NGÀY 25/09/2019 VỀ TỘI GÁ BẠC VÀ ĐÁNH BẠC

Ngày 25 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 337/2019/TLPT-HS ngày 16/8/2019 đối với bị cáo Trần Thị T, Nguyễn Văn Q, Trần Văn L, Trần Thị B, Nguyễn Thị Thu T, Bùi Kim L, Bùi Thị Ngọc T, Trần Thị N, Trần Thị Gái M, Huỳnh Thị Thu H do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự số 102/2019/HSST ngày 04/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện C, Thành phố H.

Các Bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Thị T, sinh năm: 1964, tại Thành phố H; nơi cư trú: Ấp 9, xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Tp H; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ văn hoá: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần văn Đ và bà Trần Thị X; có chồng; có 01 con sinh năm 1986; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/02/2019 đến ngày 15/5/2019, được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

2. Nguyễn Văn Q, sinh năm: 1985, tại Tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: Ấp 6B, xã Bình Mỹ, huyện C, Tp H; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị B; có vợ, có 2 đứa con lớn nhất sinh năm: 2008 nhỏ nhất sinh năm: 2018; Tiền án, Tiền sự: Không; tạm giam từ 07/02/2019 (có mặt).

3. Trần Văn L, sinh năm: 1981, tại Thành phố H; nơi cư trú: Tổ 8, Ấp 9, xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Tp H; Nghề nghiệp: Chăn nuôi; Trình độ văn hoá: 0/12 (không biết chữ); dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn M và bà Nguyễn Thị M; có vợ, có 02 con, lớn nhất sinh năm: 2004, nhỏ nhất sinh năm:2011; Tiền án, Tiền sự: Không; tạm giam từ 07/02/2019 (có mặt).

4. Trần Thị B, sinh năm: 1972, tại Thành phố H; nơi cư trú: Ấp 9, xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Tp H; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn N và bà Tô Thị P; có chồng, có 01 con sinh năm 1991; Tiền án, Tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/02/2019 đến ngày 08/02/2019, được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

5. Nguyễn Thị Thu T2, sinh năm: 1988, tại Thành phố H; nơi cư trú: Ấp 1, xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Tp H; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị N; chưa có gia đình; Tiền án, Tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/02/2019 đến ngày 08/02/2019, được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

6. Bùi Kim L, sinh năm: 1983, tại Thành phố H; nơi cư trú: Ấp 10, xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Tp H; Nghề nghiệp: nội trợ; Trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn C và bà Nguyễn Thị M; có chồng, có 02 người con, lớn nhất sinh năm: 2015, nhỏ nhất sinh 10/5/2019; Tiền án, Tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/02/2019 đến ngày 08/02/2019, được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

7. Bùi Thị Ngọc T, sinh năm: 1978, tại Thành phố H; HKTT: Ấp 9, xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Tp H; cư trú: Ấp 10, xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Tp H; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn C và bà Nguyễn Thị M; có chồng, có 01 con sinh năm: 2002; Tiền án, Tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/02/2019 đến ngày 08/02/2019, được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt).

8. Trần Thị N, sinh năm: 1972, tại Thành phố H; nơi cư trú: Ấp 9, xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Tp H; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hoá: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn X và bà Lê Thị L; có chồng, có 03 người con lớn nhất sinh năm:1993, nhỏ nhất sinh năm: 2009; Tiền án, Tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/02/2019 đến ngày 08/02/2019, được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

9. Trần Thị Gái M, sinh năm: 1994, tại Thành phố H; nơi cư trú: Ấp 9, xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Tp H; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn M và bà Nguyễn Thị M, có chồng, có 02 người con sinh năm: 2014 và ngày 23/8/2019; Tiền án, Tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/02/2019 đến ngày 08/02/2019, được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

10. Huỳnh Thị Thu H, sinh năm: 1994, tại Thành phố H; HKTT: Ấp 1, xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Tp H; cư trú: Ấp 7, xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Tp H; Nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; Trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Bé C và bà Nguyễn Thị T; có chồng, (hiện đang mang thai gần 6 tuần tuổi); Tiền án, Tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/02/2019 đến ngày 08/02/2019, được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 17 giờ 35 phút ngày 07/02/2019, Đội Cảnh sát hình sự Công an huyện C kết hợp với Công an xã Tân Thạnh Đông, bắt quả tang 02 sòng bạc có 14 người đang tham gia đánh bạc thắng thua bằng tiền gồm: Trần Văn L, Nguyễn Văn Q, Nguyễn Thị Thu T2, Bùi Kim L, Bùi Thị Ngọc T, Trần Thị N, Trần Thị Gái M, Trần Thị B, Huỳnh Thị Thu H, Nguyễn Thị Liên, Trần Thị Thu, Nguyễn Thị T2, Trần Thị Ngọc Tuyết và Phạm Thị Nể, tại nhà Trần Thị Ttại ấp 9, xã Tân Thạnh Đông, huyện C do Trần Thị Ttrực tiếp thu tiền xâu; thu giữ số tiền tại chiếu bạc sòng bài cào là 7.000.000 đồng và thu giữ số tiền tại chiếu bạc sòng bài tứ sắc là 3.000.000 đồng.

Trần Thị Tdùng nhà tại ấp 9, xã Tân Thạnh Đông, huyện C để cho nhiều con bạc chơi bài cào và bài tứ sắc thắng thua bằng tiền. Sòng bài tại nhà Thoạt động khoảng từ 12 giờ 00 phút đến 18 giờ 00 phút thì nghỉ, Ttrực tiếp lấy tiền xâu của người làm cái. Vào ngày 07/02/2019, Ttiếp tục dùng nhà của mình cho khoảng 20 con bạc tham gia chơi đánh bài cào và bài tứ sắc thắng thua bằng tiền. Với sòng bài cào mỗi ván bài nhà cái chia từ 5 đến 6 tụ bài, mỗi tụ bài các con bạc đặt từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng, các con bạc có thể đặt tụ, đặt theo tụ con. Ván nào nhà cái thắng thì đưa tiền xâu cho T là 50.000 đồng, ván nào thua thì không xâu.Với sòng tứ sắc Tkhông trực tiếp thu tiền xâu mà do các con bài tự bỏ tiền xâu trong 01 cái bọc hoặc hộp bài, dưới hình thức là khi đổi 01 bộ bài tứ sắc cũ thay bằng bộ mới thì bỏ tiền xâu vào đó 10.000 đồng. Khi nào sòng tứ sắc nghỉ T sẽ lấy tiền xâu dựa theo số bộ bài đã thay. Mỗi ngày, Tthu tiền xâu của hai sòng bài trên khoảng 600.000 đồng đến 800.000 đồng.

Sòng bài 1: Vào khoảng 17 giờ 15 phút ngày 07/02/2019, Nguyễn Văn Q hùn tiền với Trần Văn L đến nhà Trần Thị Tlàm cái bài cào cho các con bạc: Nguyễn Thị Thu T2, Bùi Kim L, Bùi Thị Ngọc T, Trần Thị N, Trần Thị Gái M, Trần Thị B, Huỳnh Thị Thu H tham gia đánh bài cào thắng thua bằng tiền bị bắt quả tang, cụ thể: Q mang theo 2.100.000 đồng, L mang theo 3.450.000 đồng. Q góp tiền với L mỗi người 1.000.000 đồng để làm cái, Q trực tiếp chia bài, L giữ tiền để chung chi. B mang theo 600.000 đồng, T2 mang theo 350.000 đồng, L mang theo 1.110.000 đồng, N mang theo 200.000 đồng, Ngọc Tmang theo 300.000 đồng, H mang theo 1.000.000 đồng, M mang theo 8.350.000 đồng trong đó 350.000 đồng để đánh bạc.

Ván thứ nhất Q chia 6 tụ bài, mỗi tụ đặt cược từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng , kết quả thua 650.000 L đưa tiền xâu cho T50.000 đồng. B đặt cược 50.000 đồng, L đặt cược 100.000 đồng, T2 đặt cược 100.000 đồng, N đặt cược 50.000 đồng, Ngọc Tđặt cược 100.000 đồng, H đặt cược 100.000 đồng, M đặt cược 50.000 đồng. Kết quả tất cả đều thua.

Ván thứ hai Q chia 6 tụ bài, mỗi tụ đặt cược từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng, B đặt cược 50.000 đồng, T2 đặt cược 100.000 đồng, L đặt cược 200.000 đồng, N đặt cược 50.000 đồng, Ngọc Tđặt cược 100.000 đồng, H đặt cược 200.000 đồng, M đặt cược 50.000 đồng, Liên đặt cược 200.000 đồng. Chưa biết kết quả thắng thua thì bị công an huyện C bắt quả tang.

Trước đó T2 đặt cược 100.000 đồng, L đặt cược 100.000 đồng, N đặt cược 50.000 đồng, Ngọc Tđặt cược 100.000 đồng, H đặt cược 200.000 đồng vào sòng bài do 02 người phụ nữ (chưa rõ lai lịch) làm cái kết quả T2, L, N, Ngọc Tthua hết, H thắng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 102/2019/HSST ngày 04/7/2019 của Tòa án nhân dân Huyện C, Thành phố H đã quyết định:

Tuyên bố:

Bị cáo Trần Thị Tphạm tội “Gá bạc”;

c bị cáo Trần Văn L, Nguyễn Văn Q, Nguyễn Thị Thu T2, Bùi Kim L, Bùi Thị Ngọc T, Trần Thị N, Trần Thị Gái M, Trần Thị B và Huỳnh Thị Thu H phạm tội “Đánh bạc”.

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 322, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017:

1/ Xử phạt bị cáo Trần Thị T02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 07/02/2019 đến ngày 15/5/2019. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017:

2/ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày từ 07/02/2019.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017:

3/ Xử phạt bị cáo Trần Văn L 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày từ 07/02/2019.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017:

4/ Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu T2 01 (Một) năm tù, khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 07/02/2019 đến ngày 08/02/2019. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017:

5/ Xử phạt bị cáo Bùi Kim L 01 (Một) năm tù, khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 07/02/2019 đến ngày 08/02/2019. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017:

6/ Xử phạt bị cáo Bùi Thị Ngọc T01 (Một) năm tù, khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 07/02/2019 đến ngày 08/02/2019. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017:

7/ Xử phạt bị cáo Trần Thị N 01 (Một) năm tù, khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 07/02/2019 đến ngày 08/02/2019. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017:

8/ Xử phạt bị cáo Trần Thị Gái M 01 (Một) năm tù, khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 07/02/2019 đến ngày 08/02/2019. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017:

9/ Xử phạt bị cáo Trần Thị B 01 (Một) năm tù, khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 07/02/2019 đến ngày 08/02/2019. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017:

10/ Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Thu H 01 (Một) năm tù, khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 07/02/2019 đến ngày 08/02/2019. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 08/7/2019, các bị cáo Bùi Kim L, Huỳnh Thị Thu H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được tại ngoại, các bị cáo Trần Thị B, Trần Thị N, Nguyễn Thị Thu T2, Trần Thị T, Bùi Thị Ngọc T, Trần Thị Gái M kháng cáo xin được hưởng án treo.

Ngày 09/7/2019, các bị cáo Nguyễn Văn Q, Trần Văn L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố H trình bày:

Sau khi xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ buộc tội và các tình tiết khác có trong hồ sơ vụ án, cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với các biên bản hoạt động điều tra đủ cơ sở xác định:

Vì tư lợi riêng mà bị cáo Trần Thị Tchuẩn bị bộ bài và tấm chiếu cho hai sòng bài chơi tại quán cà phê và trong phòng ngủ nhà của bị cáo để bị cáo thu tiền xâu, cụ thể: Các bị cáo Trần Văn L, Nguyễn Văn Q, Nguyễn Thị Thu T2, Bùi Kim L, Bùi Thị Ngọc T, Trần Thị N, Trần Thị Gái M, Trần Thị B và Huỳnh Thị Thu H đánh bạc bằng hình thức chơi bài cào nhằm ăn thua với nhau bằng tiền trong quán cà phê nhà của bị cáo Tđể bị cáo thu tiền xâu là 50.000 đồng một ván, ván nào thua thì không xâu. Với sòng bài tứ sắc các con bạc chơi trong phòng ngủ nhà bị cáo, bị cáo Tkhông trực tiếp thu tiền xâu mà do các con bạc tự bỏ tiền xâu trong 01 cái bọc hoặc hộp bài, dưới hình thức là khi đổi 01 bộ bài tứ sắc cũ thay bằng bộ mới thì bỏ tiền xâu vào đó 10.000 đồng nên bị cáo Trần Thị Tphạm tội” Gá bạc” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự như tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đổi với bị cáo là có căn cứ.

Đi với các bị cáo Trần Văn L, Nguyễn Văn Q giữ vai trò làm cái chơi bài cào tại nhà bị cáo T. Bị cáo L số tiền 1.000.000 đồng; bị cáo Q số tiền 1.000.000 đồng; bị cáo T2 số tiền 350.000 đồng; bị cáo L số tiền 1.000.000 đồng; bị cáo Ngọc Tsố tiền 300.000 đồng; bị cáo N số tiền 200.000 đồng; bị cáo M số tiền 200.000 đồng; bị cáo B số tiền 600.000 đồng và bị cáo H số tiền 1.000.000 đồng. Với hành vi đó Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo về tội: “Đánh bạc” là theo Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ, đúng người đúng tội.

Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân các bị cáo, xử phạt: bị cáo Trần Thị T02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Gá bạc” là thỏa đáng; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù; bị cáo Trần Văn L 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù; bị cáo Nguyễn Thị Thu T2 01 (Một) năm tù; bị cáo Bùi Kim L 01 (Một) năm tù; bị cáo Bùi Thị Ngọc T01 (Một) năm tù; bị cáo Trần Thị N 01 (Một) năm tù; bị cáo Trần Thị Gái M 01 (Một) năm tù, bị cáo Trần Thị B 01 (Một) năm tù, bị cáo Huỳnh Thị Thu H 01 (Một) năm tù là có căn cứ.

Tuy nhiên, đối với các bị cáo Bùi Kim L, Trần Thị Gái M, Huỳnh Thị Thu H hiện đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi và đang mang thai, hiện đang ổn định cuộc sống, có nơi cư trú rõ ràng nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của các bị cáo L, M, H, áp dụng thêm Điều 65 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo được hưởng án treo.

Đối với bị cáo Trần Thị T, Nguyễn Văn Q, Trần Văn L, Nguyễn Thị Thu T2, Bùi Thị Ngọc T, Trần Thị N, Trần Thị B do không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các Bị cáo không tranh luận, chỉ nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hình thức: Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 08/7/2019, các bị cáo Bùi Kim L, Huỳnh Thị Thu H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin được tại ngoại, các bị cáo Trần Thị B, Trần Thị N, Nguyễn Thị Thu T2, Trần Thị T, Bùi Thị Ngọc T, Trần Thị Gái M kháng cáo xin được hưởng án treo. Ngày 09/7/2019, các bị cáo Nguyễn Văn Q, Trần Văn L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Xét đơn kháng cáo của các bị cáo được làm trong thời hạn luật định là hợp lệ, cần chấp nhận để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm cũng như phiên tòa phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định:

Vào khoảng 17 giờ 35 phút ngày 07/2/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Huyện C, Thành phố H bắt quả tang bị cáo Trần Thị Tcó hành vi dùng nhà và quán cà phê để cho các con bạc Nguyễn Văn Q, Trần Văn L, Trần Thị B, Nguyễn Thị Thu T2, Bùi Kim L, Trần Thị N, Trần Thị Gái M, Bùi Thị Ngọc T, Huỳnh Thị Thu H tham gia đánh bài dưới hình thức bài cào ăn thua bằng tiền, quy định mỗi con bạc được làm cái 03 ván, xoay tua theo vòng, tuy nhiên, đánh đến ván thứ 3 thì bị bắt quả tang. Tổng số tiền thu giữ tại chiếu bạc và số tiền các bị cáo mang theo dùng để đánh bạc là 9.450.000 đồng.

Với hành vi đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần Thị T về tội: «Gá bạc» theo quy định tại Khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự 2015 và xử phạt các bị cáo Nguyễn Văn Q, Trần Văn L, Trần Thị B, Nguyễn Thị Thu T2, Bùi Kim L, Trần Thị N, Trần Thị Gái M, Bùi Thị Ngọc T, Huỳnh Thị Thu H về tội: “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo Trần Thị Tvề việc xin được hưởng án treo, Hội đồng xét xử xét thấy:

Ngày 07/2/2019, bị cáo Trần Thị Tdùng nhà và quán cà phê của mình để cho các con bạc tham gia đánh bài cào và tứ sắc ăn thua bằng tiền, gần 25 con bạc, 02 tụ bài cào và tứ sắc, đặt từ 100.000- 300.000 đồng thì bị bắt quả tang, tiền xâu thu giữ là 200.000 đồng. Tổng số tiền thu giữ tại chiếu bạc và số tiền các bị cáo mang theo dùng để đánh bạc là 9.450.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Gá bạc” theo Khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ nhưng có phần nghiêm khắc. Xét thấy trong vụ án này, các con bạc tự tổ chức, rủ nhau tham gia đánh bạc tại nhà của bị cáo Trần Thị T, số tiền dùng vào đánh bạc không lớn, bị cáo có nhân thân tốt, gia đình có công với cách mạng (có 02 bác ruột là liệt sỹ và được phong tặng Huân chương kháng khiến hạng 2), đặc biệt các bị cáo tham gia đánh bạc trong ngày lễ Tết theo truyền thống của dân tộc (ngày 03 Tết âm lịch) nên cần xem xét chiếu cố giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên, do bị cáo sử dụng nhà với quy mô 25 con bạc tham gia đánh bạc, 02 sòng bài tứ sắc và bài cào để thu tiền sâu, thu lợi bất chính nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Tđể đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc xin được hưởng án treo.

Đối với kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn Q và Trần Văn L, Hội đồng xét xử xét thấy: khi bị bắt giữ quả tang, bị cáo Nguyễn Văn Q khai nhận mang theo 2.100.000 đồng dùng để đánh bạc thì bị thu giữ, bị cáo Trần Văn L mang theo 3.450.000 đồng dùng để đánh bạc. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q, Trần Văn L 01 (Một) năm tù, bị cáo về tội: “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của các bị cáo xử phạt với mức án như trên là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, trong vụ án này, mặc dù các bị cáo làm cái nhưng quy mô, số tiền dùng vào đánh bạc không lớn, đặc biệt các bị cáo tham gia đánh bạc trong ngày lễ Tết theo truyền thống của dân tộc (ngày mùng 3 tết âm lịch), các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đồng thời, trong vụ án này các Bị cáo đã bị tạm giam từ ngày 07/2/2019 đến nay, xét thấy, thời hạn tạm giam các bị cáo tương xứng với tính chất mức độ và hậu quả phạm tội do bị cáo gây ra. Do vậy khi lượng hình cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn bằng với thời gian bị cáo đã bị tạm giam, như vậy cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo và phòng ngừa chung cho xã hội đối với các bị cáo.

Đối với kháng cáo của các bị cáo Trần Thị B, Nguyễn Thị Thu T2, Bùi Kim L, Trần Thị N, Trần Thị Gái M, Bùi Thị Ngọc T, Huỳnh Thị Thu H, Hội đồng xét xử xét thấy: trong vụ án này các bị cáo có hành vi tham gia đánh bạc dưới hình thức bài cào ăn thua bằng tiền tại nhà bị cáo Trần Thị Tthì bị bắt quả tang, cụ thể: bị cáo Trần Thị B mang theo 600.000 đồng dùng để đánh bạc, bị cáo Nguyễn Thị Thu T2 mang theo 350.000 đồng dùng để đánh bạc, bị cáo Bùi Kim L mang theo 1.100.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Trần Thị N mang theo 200.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Trần Thị Gái M mang theo 350.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Bùi Thị Ngọc Tmang theo 300.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Huỳnh Thị Thu H mang theo 1.000.000 đồng để đánh bạc. Với hành vi đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo Trần Thị B, Nguyễn Thị Thu T2, Bùi Kim L, Trần Thị N, Trần Thị Gái M, Bùi Thị Ngọc T, Huỳnh Thị Thu H 01 (Một) năm tù, bị cáo về tội: “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ. Tuy nhiên, xét thấy quy mô, số tiền dùng vào đánh bạc không lớn, đặc biệt các bị cáo tham gia đánh bạc trong ngày lễ Tết theo truyền thống của dân tộc (ngày mùng 3 tết âm lịch), các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Trong đó, Bị cáo Nguyễn Thị Thu T2 thuộc gia đình có công cách mạng, bị cáo Bùi Kim L, Trần Thị Gái M hiện đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, Bị cáo Huỳnh Thị Thu H hiện là phụ nữ đang mang thai. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm i, s Khoản 1 Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 cần xem xét áp dụng cho các bị cáo. Đồng thời, xét thấy các bị cáo hiện đang ổn định cuộc sống, có nghề nghiệp ổn định, có nơi cư trú rõ ràng nên khi lượng hình, Hội đồng xét xử vận dụng thêm Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 như vậy cũng đủ các dụng răn đe, giáo dục bị cáo. Do đó, cần xem xét chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Trần Thị B, Nguyễn Thị Thu T2, Bùi Kim L, Trần Thị N, Trần Thị Gái M, Bùi Thị Ngọc T, Huỳnh Thị Thu H, sửa bản án sơ thẩm.

Đồng thời, xét thấy khi bị bắt quả tang, bị cáo Nguyễn Văn Q khai nhận mang theo 2.100.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Trần Văn L mang theo 3.450.000 đồng dùng để đánh bạc. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xác định bị cáo Q chỉ dùng 1.000.000 đồng, bị cáo L dùng 1.000.000 đồng để đánh bạc, còn lại 1.100.000 đồng trả lại cho bị cáo Q và 2.450.000 đồng trả lại cho bị cáo L là chưa chính xác. Do đó, căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, cần buộc các bị cáo nộp lại số tiền nêu trên để tịch thu sung công quỹ nhà nước, cụ thể: bị cáo Nguyễn Văn Q nộp 1.100.000 đồng; bị cáo Trần Văn L nộp 2.450.000 đồng.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm a, b Khoản 1 Điều 355; Điểm c, e Khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Không Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị T; Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn Q, Trần Văn L; Trần Thị B, Nguyễn Thị Thu T2, Bùi Kim L, Trần Thị N, Trần Thị Gái M, Bùi Thị Ngọc T, Huỳnh Thị Thu H. Sửa Bản án sơ thẩm số 102/2019/HSST ngày 04/7/2019 của Tòa án nhân dân Huyện C, Thành phố H

Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 322, Điểm s Khoản 1 Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017:

1/ Xử phạt bị cáo Trần Thị T01 (Một ) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 07/02/2019 đến ngày 15/5/2019.

n cứ Khoản 1 Điều 321, Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017:

2/ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 07(B) tháng 18 (M tám) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày từ 07/02/2019.

3/ Xử phạt bị cáo Trần Văn L 07(B) tháng 18 (M tám) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày từ 07/02/2019.

Căn cứ Khoản 5 Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Tuyên bố trả tự do Ny tại phiên tòa cho các bị cáo Nguyễn Văn Q, Trần Văn L nếu các bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

n cứ Khoản 1 Điều 321, Điểm i, s Khoản 1 Khoản 2 Điều 51 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017:

4/Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu T2 01 (Một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Thành phố H giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

5/Xử phạt bị cáo Bùi Kim L 01 (Một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Thành phố H giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

6/Xử phạt bị cáo Bùi Thị Ngọc T01 (Một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Thành phố H giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

7/Xử phạt bị cáo Trần Thị N 01 (Một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Thành phố H giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

8/Xử phạt bị cáo Trần Thị Gái M 01 (Một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Thành phố H giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

9/ Xử phạt bị cáo Trần Thị B 01 (Một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Thành phố H giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

10/ Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Thu H 01 (Một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Tân Thạnh Đông, huyện C, Thành phố H giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, buộc bị cáo Nguyễn Văn Q nộp 1.100.000 đồng; bị cáo Trần Văn L nộp 2.450.000 đồng để nộp vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo Trần Thị Tphải đóng 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các Bị cáo Nguyễn Văn Q, Trần Văn L; Trần Thị B, Nguyễn Thị Thu T2, Bùi Kim L, Trần Thị N, Trần Thị Gái M, Bùi Thị Ngọc T, Huỳnh Thị Thu H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Trong thời gian thử thách, nếu các bị cáo được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở L thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm về các vấn đề không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Đã giải thích chế định án treo).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 407/2019/HS-PT ngày 25/09/2019 về tội gá bạc và đánh bạc

Số hiệu:407/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về