Bản án 39/2019/HS-PT ngày 10/04/2019 về tội gá bạc và đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 39/2019/HS-PT NGÀY 10/04/2019 VỀ TỘI GÁ BẠC VÀ ĐÁNH BẠC

Ngày 10 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 70/2019/TLPT-HS ngày 08 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo Vũ Quốc X, Đoàn Văn Đ do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HSST ngày 11/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tình Hải Dương.

Bị cáo kháng cáo:

1. VŨ QUỐC X - Sinh năm 1972. Tại Q, thành phố HD, hiện trú tại: Khu Đ Ph, phường Q, thành phố HD; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Quốc S và bà Cao Thị M, có vợ và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 20/HSST ngày 28/7/2005 của TAND huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương xử phạt 10 tháng tù về tội Đánh bạc (tổng số tiền đánh bạc là 1.425.000đ); bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/7/2018 đến ngày 25/7/2018 được tại ngoại, bị cáo vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. ĐOÀN VĂN Đ - Sinh năm 1990. Tại Q, thành phố HD; hiện trú tại: Khu Đ Ph, phường Q, thành phố HD; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn Đ1 và bà Hoàng Thị Ng; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/7/2018 đến ngày 25/7/2018. Hiện tại ngoại. Có mặt.

Ngoài ra còn có 08 bị cáo không kháng cáo, không bị kháng nghị.

Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1974. Vắng mặt.

Địa chỉ: Khu ĐPh, phường Q, thành phố HD.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 23/7/2018, Đoàn Văn H, Cao Văn Ph, Đoàn Văn C, Đoàn Văn Đ, Vũ Quốc Th1, Lê Khả Th, Vũ Văn K, Đoàn Văn T, Vũ Văn H đến nhà Xuân ở làng V- khu dân cư Đ Ph phường Q, TP HD chơi. Sau đó cả nhóm rủ nhau đánh bạc được thua bằng tiền, dưới hình thức xóc đĩa. X lấy 01 đĩa sứ, 01 bát sứ và cắt 04 quân vị hình tròn, có hai mặt trắng-vàng từ vỏ bao thuốc lá Vinataba để làm dụng cụ chơi xóc đĩa. Cả nhóm vào gian phòng phía trong, cạnh phòng khách của gia đình X để đánh bạc. Trước khi chơi H, Ph, C, Đ, Th, Th1, K và T mỗi người bỏ ra 300.000đ, tổng cộng 2.400.000đ nộp cho X. Khi chơi, Đ là người cầm cái. X tham gia đánh bạc đồng thời cảnh giới cho mọi người đánh bạc, nếu có người đến X sẽ thông báo. Đến khoảng 21 giờ 30 phút Vũ Văn H1 đến nhà X chơi, thấy cả nhóm ngồi đánh xóc đĩa nên cũng ngồi vào tham gia đánh bạc. Hình thức chơi như sau: Người cầm cái cho 04 quân vị bài vào trong đĩa sứ rồi úp bát xóc lên một vài cái rồi đặt xuống chiếu, những người chơi đặt cửa chẵn hoặc lẻ, khi người cầm cái mở bát ra, bên trong đĩa sứ các quân vị thuộc cửa chẵn (4 vàng, 4 trắng hoặc 2 vàng, 2 trắng) thì người đặt cửa chẵn thắng, người đặt cửa lẻ (3 vàng, 1 trắng hoặc 1 vàng, 3 trắng) bị thua và ngược lại. Mức đặt thấp nhất là 100.000đ, không quy định mức tối đa. Người cầm cái sẽ trả cho người thắng số tiền bằng số tiền đã đặt cửa trước đó và người cầm cái được hưởng số tiền của người thua. Cả nhóm ngồi chơi đánh bạc đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày thì bị phát hiện, bắt quả tang, lợi dụng sơ hở T đã bỏ trốn. Cơ quan điều tra đã thu giữ tại vị trí đánh bạc số tiền 8.100.000đ; 01 bát sứ; 01 đĩa sứ; 04 quân vị hình tròn làm từ vỏ bao thuốc lá; thu giữ trên người K 1.100.000đ; thu giữ trên người C 1.000.000đ; thu giữ trên người Ph 900.000đ; thu giữ trên người H1 1.200.000đ; thu giữ trên người Th1 750.000đ; thu giữ trên người H 650.000đ; thu giữ trên người Đ 300.000đ. K, C, Ph, H1, Th1, H, Đ đều xác định số tiền thu trên người để sử dụng vào việc đánh bạc. Ngày 24/7/2018 T ra đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội và xác định khi bỏ chạy đã để tại vị trí ngồi đánh bạc số tiền 900.000đ và cầm theo 2.500.000đ là tiền sử dụng đánh bạc.

Quá trình điều tra đã xác định số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc như sau: X có 2.400.000đ khi bị bắt đã thua hết; Th1 có 2.000.000đ khi bị bắt còn 750.000đ; Ph có 900.000đ khi bị bắt còn 900.000đ; C có 2.200.000đ khi bị bắt còn 1.000.000đ; K có 1.600.000đ khi bị bắt có 1.100.000đ; H1 có 1.400.000đ khi bị bắt còn 1.200.000đ; H có 1.700.000đ khi bị bắt còn 650.000đ; Đ có 2.700.000đ khi bị bắt còn 300.000đ; Th có 700.000đ khi bị bắt đã thua hết; T có 900.000đ khi bị bắt đã bỏ lại 900.000đ và cầm theo 2.500.000đ bỏ chạy.

Tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 16.500.000đ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 11/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm b khoản 1; khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 35; Điều 17; Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Vũ Quốc X phạm tội" Đánh bạc” và tội “Gá bạc”; Xử phạt bị cáo Vũ Quốc X 08 (tám) tháng tù về tội Đánh bạc; 12 (mười hai) tháng tù về tội Gá bạc. Tổng hợp chung của hai tội là 20 (hai mươi) tháng tù (được trừ 02 ngày tạm giữ từ ngày 24/7/2018 đến ngày 25/7/2018). Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Căn cứ khoản 1; 3 Điều 321; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự; Tuyên bố bị cáo Đoàn Văn Đ phạm tội" Đánh bạc"; Xử phạt bị cáo Đoàn Văn Đ 11 (mười một) tháng tù (được trừ 02 ngày tạm giữ từ ngày 24/7/2018 đến ngày 25/7/2018). Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra bản án còn tuyên về tội danh, hình phạt chính, hình phạt bổ sung, vật chứng, án phí sơ thẩm hình sự, quyền kháng cáo của các bị cáo khác.

Ngày 15/01/2019 bị cáo Vũ Quốc X có đơn kháng cáo đề nghị được giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo và bị cáo Đoàn Văn Đ có đơn kháng cáo đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Đ giữ nguyên nội dung kháng cáo, bị cáo thừa nhận Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương xét xử về tội danh là đúng, bị cáo không kháng cáo nội dung này.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Áp dụng điểm a,b khoản 1 Điều 355, 356 và 357 của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Quốc X và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm đối với bị cáo X. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đoàn Văn Đ và sửa bản án hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Đ. Về án phí: Bị cáo X phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, bị cáo Đ không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Kháng cáo của các bị cáo trong thời gian luật định nên là kháng cáo hợp lệ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Vũ Quốc X vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Trước khi mở phiên tòa , bà Nguyễn Thị Ngọc Bích đã được phân công thay ông Lại Anh Vân tham gia xét xử vụ án. Căn cứ Điều 349 và 351 của Bộ luật tố tụng hình sự, HĐXX tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[2] Về nội dung, HĐXX xét thấy: Lời nhận tội của bị cáo Đ tại phiên tòa phù hợp với lời khai và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 23/7/2018, tại nhà của Vũ Quốc X ở làng V, khu Đ Ph, phường Q, TP. HD, bị cáo X đã thu tiền của các bị cáo khác rồi cảnh giới đồng thời cùng các bị cáo Đoàn Văn Đ, Đoàn Văn C, Đoàn Văn H, Vũ Văn H1, Vũ Quốc Th1, Cao Văn Ph, Lê Khả Th, Vũ Văn K, Đoàn Văn T đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức đánh xóc đĩa. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 16.500.000đ (Mười sáu triệu năm trăm nghìn đồng). Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương đã xét xử Vũ Quốc X về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS và tội “Gá bạc” theo điểm b khoản 1 Điều 322 BLHS; bị cáo Đoàn Văn Đ về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS là có căn cứ pháp luật, về tội danh, các bị cáo không kháng cáo nên HĐXX không xem xét.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Vũ Quốc X, HĐXX xét thấy: Với tính chất hành vi của bị cáo, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương đã xử phạt bị cáo Vũ Quốc X 08 (tám) tháng tù về tội Đánh bạc; 12 (mười hai) tháng tù về tội Gá bạc. Tổng hợp chung của hai tội là 20 (hai mươi) tháng tù được trừ 02 ngày tạm giữ từ ngày 24/7/2018 đến ngày 25/7/2018. Bị cáo là người có nhân thân không tốt. Bị cáo bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội. Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và tuyên mức hình phạt đối với bị cáo như trên là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không nộp thêm chứng cứ gì mới làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt. Do vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm đối với bị cáo X, như vậy là phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 355 và 356 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[4] Xét kháng cáo của bị cáo Đoàn Văn Đ, HĐXX xét thấy: Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương đã áp dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân đối với bị cáo và xử phạt Đoàn Văn Đ 11 (mười) tháng tù (được trừ 02 ngày tạm giữ) là phù hợp. Tuy nhiên bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Trong vụ án này bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo Đ có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự, được tặng danh hiệu chiến sĩ tiên tiến. Tại cấp phúc thẩm bị cáo nộp biên lai thu tiền với số tiền là 12.000.000đ tiền phạt, điều đó thể hiện sự ăn năn, hối cải, có ý thức trong việc chấp hành pháp luật, đây là tình tiết mới phát sinh trong quá trình xét xử phúc thẩm, HĐXX cần áp dụng đối với bị cáo khi xem xét giải quyết kháng cáo. Xét thấy bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, việc cho bị cáo được hưởng án treo không làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương. Do vậy, căn cứ Điều 65 của Bộ luật hình sự, điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sụ chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đoàn Văn Đ và sửa bản án sơ thẩm đối với bị cáo Đ theo hướng cho bị cáo được hưởng án treo.

[5] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo X không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Kháng cáo của bị cáo Đ được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Quốc X, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 02/2018/HS-ST ngày 11/01/2019 của Tòa án nhân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương đối với bị cáo Vũ Quốc X.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm b khoản 1; khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Quốc X 08 (tám) tháng tù về tội Đánh bạc; 12 (mười hai) tháng tù về tội Gá bạc. Tổng hợp chung của hai tội là 20 (hai mươi) tháng tù (được trừ 02 ngày tạm giữ từ ngày 24/7/2018 đến ngày 25/7/2018). Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

2. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đoàn Văn Đ và sửa bản án hình sự sơ thẩm số 02/2018/HS-ST ngày 11/01/2019 của Tòa án nhân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương đối với bị cáo Đoàn Văn Đại.

Căn cứ khoản 1; 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58, Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đoàn Văn Đ 11 (mười một) tháng tù cho hưởng án treo về tội Đánh bạc. Thời gian thử thách là 22 (hai mươi hai) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Đoàn Văn Đ cho UBND phường Q, thành phố HD, tỉnh Hải Dương nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Đ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đoàn Văn Đ không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bị cáo Vũ Quốc X phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

388
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HS-PT ngày 10/04/2019 về tội gá bạc và đánh bạc

Số hiệu:39/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:10/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về