Bản án 405/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 405/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 30 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 293/2020/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 10 năm 2020 về việc Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2020/QĐST-HNGĐ ngày 11/12/2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Anh Ngô H, sinh năm 1979;

Địa chỉ: Tổ 11, phường Đ, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Có mặt.

* Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H2, sinh năm 1979;

ĐKHK: Tổ 11, phường Đ, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang;

Nơi ở: Số nhà 02, tổ 12, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn anh Ngô H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi và chị Nguyễn Thị H2 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 04/11/2003 tại UBND xã Đ, huyện Y (nay là phường Đ, thành phố T), tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn, chúng tôi về chung sống với nhau tại nhà tôi ở thôn Cây Khế, xã Đ, huyện Y (nay là tổ 11, phường Đ, thành phố T), tỉnh Tuyên Quang. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc một thời gian sau đó thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do cách đây 5 năm, tôi phát hiện cô H2 ngoại tình và đã tha thứ. Nhưng đến nay, cô H2 không thay đổi. Mâu thuẫn vợ chồng của chúng tôi cũng đã được gia đình hoà giải nhưng không thành. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng tôi không thể hàn gắn và tiếp tục cùng chung sống với nhau được nữa. Tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với chị Nguyễn Thị H2.

Về quan hệ con chung: Vợ chồng tôi có 02 con chung, tên là Ngô T, sinh ngày 29/8/2004 và Ngô N, sinh ngày 09/6/2008. Sau khi ly hôn tôi có nguyện vọng nuôi cả 2 con chung mà không yêu cầu chị H2 cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và vay nợ chung: Vợ chồng tôi không có tài sản chung và vay nựo chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn chị Nguyễn Thị H2 trình bày: Tôi và anh H tìm hiểu nhau trong thời gian khoảng 4 tháng thì đi đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Chúng tôi đăng ký kết hôn ngày 04/11/2003 tại UBND xã Đ, huyện Y (nay là phường Đ, thành phố T), tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn, chúng tôi về chung sống với nhau tại nhà anh H ở thôn Cây Khế, xã Đ, huyện Y (nay là tổ 11, phường Đ, thành phố T), tỉnh Tuyên Quang. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là anh H có quan hệ với cô P bán quán cà phê nên dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn, cãi vã nhau. Tình cảm vợ chồng đến hiện giờ là không còn, mâu thuẫn vợ chồng rất trầm trọng, cuộc sống chung không thể hoà hợp, hiện vợ chồng tôi đã sỗng ly thân. Nay anh H xin ly hôn, tôi đồng ý thuận tình ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng tôi có 02 con chung, tên là Ngô T, sinh ngày 29/8/2004 và Ngô N, sinh ngày 09/6/2008. Sau khi ly hôn tôi nhất trí để anh H nuôi cả 2 con chung, tôi sẽ thăm nom con khi có điều kiện.

Về tài sản chung: Vợ chồng tôi có tài sản chung là nhà cửa, vật dụng sinh hoạt trong gia đình. Cụ thể vợ chồng tôi có mua nhà và đất của em cô và chị chồng nhưng vì chị em trong gia đình nên chúng tôi không có giấy tờ mua bán, chưa sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ly hôn tôi đề nghị anh H2 chia tài sản chung cho tôi với số tiền tôi được hưởng là 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng).

Về vay nợ chung: Vợ chồng chúng tôi có nợ chung nhưng tôi không cung cấp được cho Toà án số tiền nợ chung của vợ chồng với lý do, tôi ra khỏi nhà, vợ chồng ly thân, sổ sách đã được anh H chỉnh sửa nên không biết được cụ thể về số tiền nợ của vợ chồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; về quan hệ hôn nhân: Anh H và chị H2 đều xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và không thể hàn gắn được nên thuận tình ly hôn; về con chung: Anh H và chị H2 cùng thoả thuận sau ly hôn anh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 02 con chung, chị H2 không phải cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung và vay nợ chung: Anh H xác định không có nên không yêu cầu giải quyết, chị H2 xác định vợ chồng có tài sản chung và vay nợ chung nhưng chị H2 không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh. Vì vậy, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

* Kết quả thu thập chứng cứ thể hiện:

Anh Ngô H và chị Nguyễn Thị H2 là vợ chồng, có đăng ký kết hôn ngày 04/11/2003. Sau khi kết hôn, anh H, chị H2 sống tại tổ 11, phường Đ, thành phố Tuyên Quang cùng bố mẹ anh H. Trong thời gian chung sống vợ chồng bất đồng quan điểm không tin tưởng nhau nên dẫn đến mâu thuẫn, hiện nay anh H và chị H2 đã sống ly thân, mỗi người cư trú một nơi. Vợ chồng anh chị có 02 con chung hiện nay đang ở với anh H và bố mẹ anh H. Chính quyền địa phương khong nắm bắt được về tài sản chung và vay nợ chung.

Tại phiên tòa, nguyên đơn anh Ngô H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và ý kiến như đã trình bày, anh đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nuyễn Thị Thanh H2, anh đề nghị Tòa án giải quyết giao 02 con chung cho anh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sau ly hôn, anh không yêu cầu chị H2 phải cấp dưỡng nuôi con chung, anh cũng xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không có vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Nguyễn Thị H2 cũng nhất trí với yêu cầu xin ly hôn của anh Ngô H và đề nghị HĐXX giải quyết cho anh chị thuận tình ly hôn. Về con chung, chị H2 cũng nhất trí với ý kiến của anh H về việc giao 02 con chung cho anh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sau ly hôn, chị H2 nhất trí không phải cấp dưỡng nuôi con chung, chị H2 xác nhận chị không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh về tài sản chung và vay nợ chung nên chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nhưng chị H2 yêu cầu anh H bồi thường tuổi thanh xuân cho chị số tiền 500.000.000 đồng. Tại phần tranh luận, chị H2 đề nghị anh H hỗ trợ cho chị số tiền 300.000.000 đồng để chị lập cuộc sống mới.

Anh H xác định yêu cầu của chị H2 vượt quá khả năng của anh nên anh không nhất trí với ý kiến của chị H2.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Từ khi thụ lý đơn và trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đảm bảo đúng theo quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự; Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Hội đồng xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, trình tự tại phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật; Việc chấp hành pháp luật của đương sự : Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đúng quy định tại Điều 70; 71 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Ngô H và chị Nguyễn Thị H2.

Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về con chung: Giao cháu Ngô T, sinh ngày 29/8/2004 và cháu Ngô N, sinh ngày 09/6/2008 cho anh Ngô H chăm nom, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Nguyễn Thị H2 không phải cấp dưỡng nuôi con chung (do anh H không yêu cầu). Chị H2 có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung, vay nợ chung: Không xem xét giải quyết Về án phí: Anh Ngô H phải nộp án phí hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về pháp luật tố tụng:

Anh Ngô H và chị Nguyễn Thị H2 đều cư trú tại thành phố Tuyên Quang. Anh H và chị H2 đăng ký kết hôn năm 2003, đến ngày 02/10/2020, anh H nộp đơn khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình tại Toà án. Căn cứ 39 Bộ luật tố tụng dân sự, xác định quan hệ pháp luật là Tranh chấp về hôn nhân và gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Tuyên quang.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Anh Ngô H và chị Nguyễn Thị H2 kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Đ, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang vào ngày 04/11/2003. Như vậy quan hệ hôn nhân giữa anh H và chị H2 là hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh H và chị H2 sống tại tổ 11, phường Đ, thành phố T. Từ tháng 7 năm 2020 đến nay, anh H và chị H2 không sống cùng nhau nữa, anh chị không còn quan tâm đến nhau và đều xác nhận mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân nhằm xác lập quan hệ vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc, bền vững đã không thể đạt được. Vì vậy, anh H và chị H2 đều đề nghị thuận tình ly hôn. Xét thấy việc thuận tình ly hôn giữa anh H và chị H2 là tự nguyện, không trái đạo đức xã hội và phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

[3] Về con chung: Anh Ngô H và chị Nguyễn Thị H2 cùng xác nhận anh chị có 02 con chung là cháu Ngô T, sinh ngày 29/8/2004 và cháu Ngô N, sinh ngày 09/6/2008. Anh H, chị H2 tự nguyện thỏa thuận sau ly hôn, giao 02 con chung cho anh Ngô H chăm nom, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Nguyễn Thị H2 không phải cấp dưỡng nuôi con chung (do anh H không yêu cầu). Chị H2 có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Xét thấy việc anh H và chị H2 tự nguyện thỏa thuận về việc nuôi con chung sai ly hôn không trái quy định của pháp luật và phù hợp với nguyện vọng của các cháu, hiện nay 02 cháu đều đang ở cùng anh H và bố mẹ đẻ anh H tại phường Đ. Để tránh xáo trộn về tâm lý và điều kiện học tập của các cháu, cần chấp nhận sự thỏa thuận của các đương sự như trên.

[4] Về tài sản chung và vay nợ chung: Anh Ngô H và chị Nguyễn Thị H2 không thỏa thuận được với nhau, anh H xác định không có tài sản chung và không có vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên toà chị H2 trình bày chị và anh H có tài sản chung và vay nợ chung nhưng hiện tại chị không có tài liệu, chứng cứ giao nộp cho Tòa án nên chị không yêu cầu xem xét giải quyết nhưng chị H2 yêu cầu anh H bồi thường tuổi thanh xuân cho chị số tiền 500 triệu đồng. Tại phần tranh luận, chị H2 đề nghị anh H hỗ trợ cho chị số tiền 300.000.000 đồng để chị lập cuộc sống mới. Xét thấy các yêu cầu của chị H2 đưa ra tại phiên toà là vượt quá yêu cầu khởi kiện nên không có căn cứ xem xét giải quyết. Chị H2 có quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự sau.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo:

Anh Ngô H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Chị Nguyễn Thị H2 không phải chịu án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: - Điều 28; 39; 147; 266; 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Điều 55; 58; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Ngô H và chị Nguyễn Thị H2.

2. Về con chung: Công nhận sự thảo thuận giữa các đương sự:

Giao cháu Ngô T, sinh ngày 29/8/2004 và cháu Ngô N, sinh ngày 09/6/2008 cho anh Ngô H chăm nom, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Nguyễn Thị H2 không phải cấp dưỡng nuôi con chung (do anh H không yêu cầu). Chị H2 có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, vay nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Anh Ngô H phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai ngày 13/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Anh H đã nộp đủ án phí.

Chị Nguyễn Thị H2 không phải chịu án phí.

Anh Ngô H và chị Nguyễn Thị H2 có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 405/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về hôn nhân và gia đình

Số hiệu:405/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về