TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 404/2019/HS-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 390/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 433/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Đỗ Linh P, sinh năm 1986 tại tỉnh Phú Yên; thường trú: Thôn M, xã H, thành phố T, tỉnh Phú Yên; tạm trú: 42A/59 khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Đỗ T, sinh năm 1965 và bà Phạm Thị S, sinh năm 1965; bị cáo có 02 em ruột, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 24/7/2019, trả tự do ngày 02/8/2019; đến ngày 23/8/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.
2. Lý Ngọc Hoàng T, sinh năm 1995 tại tỉnh Đắk Lắk; thường trú: Thôn 2, xã E, huyện C, tỉnh Đ; tạm trú: 520/21/10D, khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lý Ngọc B, sinh năm 1962 và bà Hoàng Thị B, sinh năm 1968; bị cáo có 02 chị ruột, lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 24/7/2019, đến ngày 23/8/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt. 3. Nguyễn Trung D, sinh năm 1994 tại tỉnh Bình Định; thường trú: Thôn T, xã M, huyện P, tỉnh B; tạm trú: Khu phố 5, phường L, quận T, Thành phố H; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Trung T, sinh năm 1962 và bà Võ Thị K, sinh năm 1968; bị cáo có 02 anh em ruột, lớn nhất sinh năm 1986, nhỏ nhất sinh năm 1998; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 24/7/2019, đến ngày 23/8/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.
4. Nguyễn Văn N, sinh năm 1997 tại tỉnh Đồng Tháp; thường trú: Ấp M, xã P, huyện T, tỉnh Đ; tạm trú: Số 02/46B khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: Lớp 06/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1965 và bà Võ Thị T, sinh năm 1977; bị cáo có 01 chị em ruột, lớn sinh năm 1992; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 24/7/2019, ngày 02/8/2019 được trả tự do; đến ngày 23/8/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.
- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Thanh D, sinh năm 1997. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 24 tháng 7 năm 2019, tại phòng trọ số 6 địa chỉ 42A/59, khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương, Đỗ Linh P rủ Lý Ngọc Hoàng T, Nguyễn Trung D, Nguyễn Văn N chơi đánh bạc thắng thua bằng tiền, hình thức tài xỉu bằng phần mềm được tải trên điện thoại di động hiệu Oppo A33W, màu đen. Đỗ Linh P làm cái trên phần mềm điện thoại di động có 03 hột xí ngầu, lắc từ 11 điểm trở lên là tài, từ 10 điểm trở xuống là xỉu để những người còn lại đặt cược, mỗi ván đặt cược từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng. Đến khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, Công an phường A kiểm tra hành chính, phát hiện Đỗ Linh P rủ Lý Ngọc Hoàng T, Nguyễn Trung D, Nguyễn Văn N đang chơi đánh bạc thắng thua bằng tiền nên bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tiền tang tại chiếu bạc 300.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Oppo A33W màu đen.
Qua thu thập tài liệu, chứng cứ và kết quả điều tra xác định được Đỗ Linh P, Lý Ngọc Hoàng T, Nguyễn Trung D, Nguyễn Văn N tham gia Đánh bạc, cụ thể như sau:
Đỗ Linh P mang theo 5.700.000 đồng và sử dụng 2.000.000 đồng để đánh bạc, quá trình chơi thua 300.000 đồng, khi bị bắt giữ thu giữ tiền tang tại chiếu bạc 300.000 đồng và thu giữ trong người 5.100.000 đồng.
Lý Ngọc Hoàng T mang theo và sử dụng 4.000.000 đồng để đánh bạc, quá trình chơi thua 800.000 đồng, khi bị bắt giữ thu giữ trong người 3.200.000 đồng. Nguyễn Trung D mang theo 1.700.000 đồng và sử dụng 600.000 đồng để đánh bạc, quá trình chơi thắng 1.500.000 đồng, khi bị bắt giữ thu giữ trong người 3.200.000 đồng.
Nguyễn Văn N mang theo và sử dụng 400.000 đồng để đánh bạc, quá trình chơi thua hết 400.000 đồng.
Tổng số tiền Đỗ Linh P, Lý Ngọc Hoàng T, Nguyễn Trung D, Nguyễn Văn N sử dụng để đánh bạc là 7.000.000 đồng.
Tang vật thu giữ: 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo A33W màu đen; tiền tang tại chiếu bạc là 300.000 đồng; thu giữ tiền trong người của Đỗ Linh P 5.100.000 đồng, Lý Ngọc Hoàng T 3.200.000 đồng, Nguyễn Trung D 3.200.000 đồng (trong đó tiền sử dụng để đánh bạc của Đỗ Linh P 1.400.000 đồng, Lý Ngọc Hoàng T 3.200.000 đồng, Nguyễn Trung D 2.100.000 đồng).
Đối với số tiền 3.700.000 đồng của Đỗ Linh P, số tiền 1.100.000 đồng của Nguyễn Trung D không sử dụng để đánh bạc, do đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã trả lại số tiền trên.
Bản Cáo trạng số 402/CT-VKS ngày 30 tháng 10 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Đỗ Linh P, Lý Ngọc Hoàng T, Nguyễn Trung D, Nguyễn Văn N về Tội đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt các bị cáo Đỗ Linh P từ 25.000.000đồng đến 30.000.000đồng, Lý Ngọc Hoàng T từ 23.000.000đồng đến 28.000.000đ; Nguyễn Trung D từ 20.000.000đồng đến 25.000.000đồng, Nguyễn Văn N từ 20.000.000đồng đến 25.000.000đồng. Đề nghị tịch thu nộp vào Ngân sách Nhà nước số tiền 7.000.000 đồng và điện thoại di động hiệu Oppo A33W, màu đen.
Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng, không tranh luận, đối đáp gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Việc tạm giữ các bị cáo sau đó thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú là đúng quy định. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Quá trình điều tra, người làm chứng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 24 tháng 7 năm 2019 tại phòng trọ số 42A/59, khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương, Đỗ Linh P, Lý Ngọc Hoàng T, Nguyễn Trung D, Nguyễn Văn N đánh bạc ăn thua bằng tiền, hình thức tài xỉu trên điện thoại di động, mỗi ván đặt cược từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng, tổng số tiền sử dụng đánh bạc là 7.000.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng số 402/CT-VKS ngày 30 tháng 10 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện tuy là ít nghiêm trọng nhưng đã xâm phạm trật tự công cộng, trật tự xã hội. Về ý thức chủ quan, các bị cáo nhận thức rõ hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vì tham lam tư lợi các bị cáo đã cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo.
[4] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, bị cáo Đỗ Linh P là người rủ rê các bị cáo và trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Các bị cáo Lý Ngọc Hoàng T, Nguyễn Trung D, Nguyễn Văn N tham gia với vai trò là người thực hành.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[7] Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt.
[8] Xét các bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, lần đầu phạm tội, có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng, trong thời gian được tại ngoại luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước và địa phương; xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo, không cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đủ sức răn đe, giáo dục và cũng không làm ảnh hưởng đến tình hình đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 139/2019/HSST-LCĐKNCT, số 140/2019/HSST-LCĐKNCT, số 141/2019/HSST-LCĐKNCT, số 142/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 04/11/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
[9] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên Hội đồng xét xử đã áp dụng hình phạt chính là phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[10] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:
[11] Xét số tiền 7.000.000 đồng và 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo A33W, màu đen các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc, cần tịch thu nộp vào Ngân sách Nhà nước.
[12] Xét đề nghị của Đại diện viện kiểm sát về tội danh, pháp luật áp dụng, mức hình phạt và vấn đề xử lý vật chứng là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[13] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Đỗ Linh P, Lý Ngọc Hoàng T, Nguyễn Trung D, Nguyễn Văn N phạm tội đánh bạc.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Đỗ Linh P 25.000.000 (hai mươi lăm triệu) đồng
- Xử phạt bị cáo Lý Ngọc Hoàng T 23.000.000 (hai mươi ba triệu) đồng;
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung D 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng;
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 139/2019/HSST-LCĐKNCT, số 140/2019/HSST-LCĐKNCT, số 141/2019/HSST-LCĐKNCT, số 142/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 04/11/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
2. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 7.000.000 (bảy triệu) đồng và 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo A33W, màu đen.
(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 30/10/2019 và biên lai thu tiền số 01329 ngày 04/11/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh B).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Đỗ Linh P, Lý Ngọc Hoàng T, Nguyễn Trung D, Nguyễn Văn N, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
4. Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 404/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 404/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về