Bản án 40/2021/HSST ngày 19/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN NAM, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 40/2021/HSST NGÀY 19/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong các ngày 17 và 19/5/2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 34/2021/HSST ngày 19/4/2021 – theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2021/QĐXXST-HS ngày 05/5/2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn V, sinh năm: 1999, tại Bình Thuận; nơi cư trú: thôn Đại Thành, xã Mương M, huyện Hàm Thuận N, tỉnh Bình Thuận; nghề nghệp: làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; Tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1967 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm: 1975; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không. Nhân thân, ngày 28/9/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 05 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 74/2016/HSST ngày 28/9/2016, đến nay đã chấp hành xong.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 04/02/2021 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Nhng người tham gia tố tụng khác:

- Bị hại: ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1973 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đại Th, xã Mương M, huyện Hàm Thuận N, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án đối với hành vi của bị cáo được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 11/11/2020, Nguyễn Văn V đi bộ từ nhà mình đến nhà cậu ruột là ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1973, tại thôn Đại Th, xã Mương M, huyện Hàm Thuận N chơi. Nhưng khi đến nhà ông H thì V không thấy ai ở nhà. Lúc này, V nhìn thấy nhà ông H có để một xe mô tô biển kiểm soát 86F4-8718, hiệu Victory màu xanh đang dựng trước cửa nhà, nên V nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô trên để bán lấy tiền tiêu xài. V đi đến vị trí để xe, thấy xe không có chìa khóa nên V rút dây ổ khóa điện ra để đạp xe nổ. Sau khi, nổ máy xong V điều khiển xe chạy về hướng thành phố Phan Thiết và ghé vào một tiệm sửa xe (không nhớ tên), gặp một người đàn ông đang sửa xe, V hỏi “Ở đây có mua xe không” thì người này quan sát xe và hỏi V bán bao nhiêu thì V nói bán với giá 2.000.000 (hai triệu) đồng. Sau đó, người sửa xe này gọi bà chủ tiệm ra và nói 2.000.000 (hai triệu) đồng cao quá nên không đồng ý mua xe. Do không bán được xe mô tô trên nên V chạy xe quay về lại xã Mương Mán rồi giấu xe ở ngôi nhà hoang gần nhà V. Đến chiều ngày 12/11/2020 V đến ngôi nhà hoang lấy xe mô tô trên điều khiển đi chơi thì bị Công an xã Mương M phát hiện bắt giữ. Sau đó, chuyển cho Cơ quan điều tra công an huyện Hàm Thuận Nam xử lý theo thẩm quyền.

Tang vật tạm giữ:

- 01 xe mô tô hiệu Victory màu xanh biển kiểm soát 86F4-8718;

Tại bản kết luận định giá số 60 ngày 18/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hàm Thuận Nam kết luận: Xe môtô hiệu Victory màu xanh biển kiểm soát 86F4-8718 trị giá 3.000.000 đồng.

Xử lý vật chứng:

Đối với xe mô tô hiệu Victory màu xanh biển kiểm soát 86F4-8718 quá trình điều tra đã xác định là tài sản của ông Nguyễn Văn H nên ngày 21/12/2020 CQCSĐT đã ra quyết xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu là ông H. Ông H không có yêu cầu gì.

Tại bản cáo trạng số 38/CT-VKSHTN-HS ngày 15/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam truy tố Nguyễn Văn V về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố tại cáo trạng nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Nguyễn Văn V, phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn V từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đối với xe mô tô hiệu Victory màu xanh biển kiểm soát 86F4-8718 quá trình điều tra đã xác định là tài sản của ông Nguyễn Văn H nên ngày 21/12/2020 CQCSĐT đã ra quyết xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu là ông Hòa. Ông H không có yêu cầu gì.

Tại phiên tòa bị cáo thống nhất quan điểm luận tội của Viện kiểm sát, không tranh luận gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Bị hại ông Nguyễn Văn H vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Kiểm sát viên, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vắng mặt bị hại. Xét thấy Bị hại đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ và việc vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng Hình sự tiến hành xét xử vắng mặt bị hại.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm Thuận Nam, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn V khai nhận: vào khoảng 14 giờ ngày 11/11/2020, tại thôn Đại Th, xã Mương M, huyện Hàm Thuận N, bị cáo Nguyễn Văn V đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của ông Nguyễn Văn H là xe mô tô biển kiểm soát 86F4- 8718 hiệu Victory màu xanh. Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 3.000.000 đồng; do đó, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Văn V đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam đã truy tố bị cáo V là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, tác động xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo đã từng bị Toa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng xét xử về tội trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, nhưng lại tiếp tục có hành vi trộm cắp tài sản. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung, cần có mức hình phạt, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cần xem xét trong qua trinh điều tra bi ̣cáo Nguyễn Văn V"thành khẩn khai báo” và “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn”, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự, vật chứng vụ án: Tài sản bị chiếm đoạt Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Thuận Nam đã trả lại cho bị hại và bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội: “Trộm cắp tài sản” Áp dụng: khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; Điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn V 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt t ù được tính từ ngày bắt đi thi hành án.

2. Về án phí:

Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn V phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2021/HSST ngày 19/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:40/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Nam - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về