TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BUÔN ĐÔN, TỈNH ĐĂK LĂK
BẢN ÁN 40/2020/HSST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 11 năm 2020, Tại trụ sở Toà án nhân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 52/2020/HSST ngày 18 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Bá Khánh Tr (Tên gọi khác: Q) - Sinh năm 1987, tại tỉnh Đắk Lắk Nơi cư trú: Thôn 12, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12:
Con ông Nguyễn Qu (đã chết), bà Lê Thị Kim L – sinh năm 1961:
Tiền sự: Không:
Tiền án: Có 01 tiền án, tại bản án số 59/2019/HSST ngày 25/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuôt, tuyên phạt bị cáo Nguyễn Bá Khánh Tr 01 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt ngày 25/01/2020.
Nhân thân: Ngày 10/3/2003, bị Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định số 133/QĐ, xử lý vi phạm hành chính về hành vi: Trộm cắp tài sản, bằng hình thức đưa vào Trường giáo dưỡng thời hạn 18 tháng tại, Trường giáo dưỡng số 4, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Ngày 14/5/2004 chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính về địa phương sinh sống; ngày 15/2/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định số 198/2016/QĐTA, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: Sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn 18 tháng bằng hình thức đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Đắk Lắk. Ngày 16/11/2017 chấp hành xong quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 17/9/2020, tạm giam ngày 26/9/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
- Người bị hại:
1. Anh Nguyễn Nhất L - sinh năm 1994:
2. Ông Tuyền Hải S – sinh năm 1965 Đều trú tại: Thôn 11, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn Th – sinh năm 1980 Trú tại: Thôn 15, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 01 giờ 00 ngày 13/9/2020, Nguyễn Bá Khánh Tr - sinh năm 1987, trú tại thôn 12, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk, đi bộ từ nhà mình đến quán cà phê Th của gia đình anh Nguyễn Nhất L - sinh năm 1994, thuộc thôn 11, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Tr quan sát thấy trong quán cửa trước không khóa, nên đã đột nhập vào bên trong quán bằng cửa trước, phát hiện trên quầy pha chế của quán cà phê có 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO của ông Tuyền Hải S - sinh năm 1965, trú tại thôn 11, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk nhưng không có người trông coi, Tr liền lấy chiếc điện thoại di động trên cất giấu vào túi quần, sau đó tiếp tục đi bộ ra phía sau quán cà phê rồi đột nhập vào nhà ở của gia đình anh Nguyễn Nhất L ngay cạnh quán cà phê bằng cửa sau, rồi đi vào trong phòng ngủ của nhà anh L lấy trộm 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X cùng số tiền 618.000 đồng (sáu trăm mười tám nghìn đồng) và lấy 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 ở ngoài phòng khách rồi rời khỏi nhà anh L bằng cửa sau. Sau khi lấy trộm được số tài sản trên, Tr đi bộ đến ngã ba T thuộc xã T, huyện B ngồi đợi đến trời sáng rồi bắt xe buýt đi lên TP. B, tỉnh Đắk Lắk, khi xe đi qua địa phận xã E, huyện B, thì Tr lấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA ra kiểm tra, phát hiện thấy chiếc điện thoại bị hỏng nên đã vứt lại dọc đường. Khi đến khu vực đường Nguyễn Văn C, TP. B, tỉnh Đắk Lắk, Tr bán chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X cho một người lạ mặt (không rõ lai lịch) với giá 2.300.000 đồng (hai triệu ba trăm nghìn đồng). Sáng ngày 14/9/2020 Tr đi về huyện B, sau đó đến tiệm điện thoại Trường Th thuộc thôn 15, xã T, huyện B để bán chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO cho chủ tiệm điện thoại là ông Nguyễn Văn Th - sinh năm 1980, trú tại thôn 15, xã T, huyện B với giá là 1.000.000 đồng (một triệu đồng). Số tiền lấy trộm vào ngày 13/9/2020 tại nhà anh Nguyễn Nhất L và số tiền có được khi bán 02 (hai) chiếc điện thoại trên, Tr đã sử dụng tiêu xài vào mục đích cá nhân còn lại 13.000 đồng (mười ba nghìn đồng), đã giao nộp cho Cơ quan cảnh sát điều tra.
Vật chứng của vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Buôn Đôn đã tạm giữ từ ông Nguyễn Văn Th là chủ tiệm điện thoại Trường Th thuộc thôn 15, xã T, huyện B 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, số kiểu: VIVO 1812 (Y81i), vỏ máy màu đen, số imei 1: 861687041639351, số imei 2: 861687041693344.
Bản kết luận định giá tài sản số 31/KL-HĐĐGTS, ngày 17/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B kết luận: Giá trị 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, số kiểu : VIVO 1812 (Y81i), vỏ máy màu đen, số imei 1:
861687041639351, số imei 2: 861687041693344 là 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng); Giá trị 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X, phiên bản 64GB, vỏ máy màu trắng, vỏ phía sau bị rạn, nứt (tài sản không thu giữ được, định giá qua hồ sơ) là 7.500.000 đồng (bảy triệu năm trăm nghìn đồng); Giá trị 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA-1280, vỏ máy màu xám, màn hình đơn sắc màu đen- trắng (Tài sản không thu giữ được, định giá qua hồ sơ) là 50.000 đồng (năm mười nghìn đồng).
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA-1280, vỏ máy màu xám, màn hình đơn sắc màu đen- trắng, Tr khai trên đường đi xe buýt ra thành phố B đã vứt bỏ tại địa phận xã E, huyện B, Cơ quan điều tra công an huyện Buôn Đôn đã tổ chức truy tìm nhưng không thu giữ được.
Qua điều tra xác định chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Tuyền Hải S - sinh năm 1965, trú tại thôn 11, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Ngày 11/10/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Buôn Đôn đã trả lại cho ông Tuyền Hải S.
Cáo trạng số: 43/CT-VKS ngày 13/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn, truy tố bị cáo Nguyễn Bá Khánh Tr về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Nguyễn Bá Khánh Tr đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn đã nêu và không có ý kiến gì thêm.
Tại phiên tòa anh Nguyễn Nhất L không yêu cầu bị cáo Nguyễn Bá Khánh Tr bồi thường thiệt hại số tiền 8.168.000 đồng và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo:
Ông Nguyễn Văn Th yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 1.000.000 đồng, vì ông đã giao nộp lại cho Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Buôn Đôn chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO 1812 (Y81i), do không biết đây là tài sản bị cáo trộm cắp mà có:
Ông Tuyền Hải S đã nhận lại chiếc điện thoại bị trộm cắp nên không yêu cầu gì thêm về phần dân sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn trình bày quan điểm luận tội đối với bị cáo Nguyễn Bá Khánh Tr: Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các chứng cứ buộc tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, căn cứ nhân thân của bị cáo. Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:
Về tội danh: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá Khánh Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt Nguyễn Bá Khánh Tr từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngáy bắt tạm giữ 17/9/2020.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Buôn Đôn trả lại cho ông Tuyền Hải S chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO 1812 (Y81i) là chủ sở hữu.
Đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 13.000 đồng do phạm tội mà có.
Về trách nhiệm dân sự: Xét thấy anh Nguyễn Nhất L không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại số tiền 8.168.000 đồng nên không xem xét:
Đề nghị buộc bị cáo phải bồi thường cho ông Nguyễn Văn Th số tiền 1.000.000 đồng.
Bị cáo không có ý kiến đối đáp, tranh luận gì thêm đối với Quyết định truy tố của Viện kiểm sát và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt. Bị hại không yêu cầu bồi thường và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của hành vi, quyết định: Quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Bá Khánh Tr, bị hại anh Nguyễn Nhất L và ông Tuyền Hải S không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.
[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, và những chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Thể hiện khoảng 01 giờ 00 ngày 13/9/2020, bị cáo đã lén lút đột nhập vào quán cà phê Th của gia đình anh Nguyễn Nhất L lấy trộm 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO của ông Tuyền Hải S trị giá 1.200.000 đồng; 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X trị giá 7.500.000 đồng, 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 trị giá 50.000 đồng và số tiền 618.000 đồng của anh Nguyễn Nhất L. Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp là 9.368.000 đồng (chín triệu ba trăm sáu mươi tám nghìn đồng).
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác và gây mất trật tự trị an trong khu vực. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi, phải biết được rằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo hộ, ai xâm phạm bất hợp pháp sẽ bị pháp luật nghiêm trị, nhưng xuất phát từ động cơ tham lam, ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo cố ý lén lút thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo có nhân thân xấu và có một tiền án, chưa được xóa án tích. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án đủ nghiêm tương xứng với hành vi để giáo dục, cải tạo, răn đe bị cáo và phòng ngừa tội phạm.
Xét quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.
Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Bá Khánh Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại bản án số 59/2019/HSST ngày 25/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuôt, tuyên phạt bị cáo Nguyễn Bá Khánh Tr 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích, nhưng lại tiếp tục phạm tội, nên áp dụng tình tiết tăng nặng điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên cần giảm nhẹ một phần hình phạt nhằm thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo của pháp luật hình sự.
[5] Về áp dụng hình phạt: Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn về việc áp dụng hình phạt là hơi nhẹ, chưa tương xứng với hành vi và nhân thân của bị cáo. Bị cáo có một tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích và có nhân thân xấu nên cần xử phạt bị cáo với mức án đủ nghiêm mới có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm.
[6] Về xử lý vật chứng: Xét thấy việc xử lý vật chứng như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, nên cần chấp nhận.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ điểm b Điều 46 Bộ luật Hình sự; các Điều 584, Điều 585, Điều 587 và Điều 589 Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo Nguyễn Bá Khánh Tr phải bồi thường cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Th số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng).
Xét thấy bị hại anh Nguyễn Nhất L không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên không xem xét.
Áp dụng khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự để tính lãi suất trong giai đoạn thi hành án dân sự.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá Khánh Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá Khánh Tr 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 17/9/2020.
3. Các biện pháp tư pháp:
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:
Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Buôn Đôn trả lại cho chủ sở hữu ông Tuyền Hải S 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO 1812 (Y81i).
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 13.000 đồng do phạm tội mà có, theo biên lai thu tiền số 11556 ngày 13/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B.
- Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ điểm b Điều 46 Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 587 và Điều 589 Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo Nguyễn Bá Khánh Tr phải bồi thường ông Nguyễn Văn Th số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng).
- Về án phí: Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14 về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Bá Khánh Tr phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 40/2020/HSST ngày 30/11/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 40/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Buôn Đôn - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về