Bản án 40/2019/HS-ST ngày 30/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 40/2019/HS-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Thị Diễm M; Sinh ngày: 22/6/1986; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 241/27B6/27 đường THĐ, Phường N, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Văn V và bà: Nguyễn Thị Mỹ D; Có chồng: Là ông Chai Tze W và con: Có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 09/10/2018. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Lê Bá T; Sinh năm: 1992; Thường trú: E5/7 khu phố 5, thị trấn TT, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh.

(vắng mặt)

2. Ông Nguyễn Văn T; Sinh năm: 1988; Thường trú: A7/11C ấp 1, xã TQT, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh.

(vắng mặt)

3. Ông Cao Nguyễn Trường A; Sinh năm: 1977; Trú tại: 155/5 đường HG, Phường G, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh.

(vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 18 giờ 50 phút ngày 09/10/2018, tại trước nhà số 241/27B6/27 đường THĐ, Phường N, Quận F, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 6 và Công an Phường 14, Quận 6 trên đường tuần tra, phát hiện Lê Nguyễn Trường G đang bán cho Lê Bá T 01 gói ma túy đá giá 200.000 đồng và đã thu giữ tại chỗ bịch ma túy này. Ngoài ra, còn thu giữ trong túi quần bên phải của G 02 gói ma túy đá, thu giữ dưới đất ngay chỗ G đứng 01 gói ma túy đá, nên đã giao G, T cùng vật chứng nêu trên cho Công an Phường 14, Quận 6 giải quyết.

Cùng thời điểm, tổ công tác kiểm tra hành chính nhà số 241/27B6/27 đường THĐ, Phường N, Quận F, đã phát hiện thu giữ của Lê Thị Diễm M 02 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu tại chân cầu thang; 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu trên nệm trong phòng; 08 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu được cất giấu trong cột tóc bằng vải; 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu đựng trong hộp giấy giấu trên trần nhà; 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu để trong thùng giấy trong phòng (M khai tất cả đó là ma túy đá); một ít chất bột màu trắng trên mặt kính đồng hồ treo tường (M khai là ma túy khay). Ngoài ra, Công an còn tạm giữ hai đối tượng có mặt tại chỗ là Cao Nguyễn Trường A, Hồng Thụy Quế M và một đối tượng có biểu hiện nghi vấn (đi gần nhà của M) là Nguyễn Văn T, đồng thời thu giữ trong người của T 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu (T khai là ma túy đá vừa mua của M). Sau đó đã đưa My, An, Minh, T cùng vật chứng nêu trên cho Công an Phường 14, Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Nguyễn Văn T khai: Vào lúc 18 giờ 30 phút ngày 09/10/2018, T hùn tiền với một người tên Nam (không rõ lai lịch) đến trước nhà số 241/27B6/27 đường THĐ mua của Lê Thị Diễm M 02 gói ma túy đá giá 900.000 đồng để sử dụng. Sau khi mua xong, T đưa cho Nam 01 gói, còn 01 gói T cất giữ trong người thì bị Công an kiểm tra bắt giữ như nêu trên. Ngoài M ra, T còn mua ma túy của Lê Nguyễn Trường G và tính đến ngày bị bắt, T ma túy của G khoảng 05 lần (lần gần nhất là cách ngày bị bắt khoảng 01 tuần) và đều mua tại trước nhà số 241/27B6/27 đường THĐ.

Lê Nguyễn Trường G, Lê Bá T khai: Khoảng 18 giờ 50 phút ngày 09/10/2018, T đến trước nhà số 241/27B6/27 đường THĐ gặp G hỏi mua 01 gói ma túy đá giá 200.000 đồng. Sau khi nhận 200.000 đồng từ T, G vào trong nhà đưa lại cho Lê Thị Diễm M rồi lấy 02 gói ma túy đem ra ngoài đưa cho T 01 gói, còn 01 gói G giữ lại để dành sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Ngoài ra, G còn khai ngoài lần bị phát hiện bắt giữ, trước đó G đã bán ma túy cho Lê Bá T 03 lần, bán ma túy cho Nguyễn Văn T 05 lần. Về nguồn gốc ma túy là của M đưa cho G.

Lê Thị Diễm M khai: Để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng, cách ngày bị bắt khoảng 02 tháng, M bắt đầu mua bán ma túy. Về nguồn gốc ma túy, M khai mua của một người tên Thiện (không rõ lai lịch) và mỗi lần mua là 1 hộp 5 ma túy đá giá 3.500.000 đồng rồi đem về nhà phân ra để bán cho những người nghiện kiếm lời. Khoảng 18 giờ 50 phút ngày 09/10/2018, M đang ở cùng Cao Nguyễn Trường A, Hồng Thụy Quế M tại nhà của M tại số 241/27B6/27 đường THĐ thì Công an vào kiểm tra và phát hiện thu giữ số vật chứng là ma túy nêu trên. Ngoài ra, M khai trước khi bị bắt khoảng 10 phút, M có bán cho Lê Nguyễn Trường G 01 gói ma túy đá giá 200.000 đồng, bán cho Nguyễn Văn T 02 gói ma túy đá giá 900.000 đồng. Ngoài G và T ra, M còn bán ma túy cho một số người nghiện (không rõ lai lịch) tại trước nhà và mỗi lần bán đều là 01 gói ma túy đá giá 200.000 đồng.

Cao Nguyễn Trường A khai: Khoảng 18 giờ ngày 09/10/2018, A đến nhà thăm mẹ con Lê Thị Diễm M. Khi lên phòng, A thấy có để sẵn ma túy nên tự ý lấy sử dụng đến 19 giờ cùng ngày thì bị Công an kiểm tra bắt giữ.

Hồng Thụy Quế M khai: Khoảng 15 giờ ngày 09/10/2018, M đến nhà Lê Thị Diễm M để dạy học cho con gái M. Đến 19 giờ cùng ngày thì thấy Công an vào kiểm tra và thu giữ trong phòng M số ma túy nêu trên.

Tại Kết luận giám định số: 1679/KLGĐ-H ngày 17 tháng 10 năm 2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận:

- Gói 1: Tinh thể không màu trong 03 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Phạm Nguyễn Phước Huy (người chứng kiến), Lê Nguyễn Trường G và hình dấu Công an Phường 14, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2151g (không phẩy hai một năm một gam), loại Methamphetamine.

- Gói 2: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Phạm Nguyễn Phước Huy (người chứng kiến), Lê Bá T và hình dấu Công an Phường 14, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0188g (không phẩy không một tám tám gam), loại Methamphetamine.

- Gói 3: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Lê Thị Vân Hùng (người chứng kiến), Lê Thị Diễm M và hình dấu Công an Phường 14, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 5,5937g (năm phẩy năm chín ba bảy gam), loại Methamphetamine.

- Gói 4: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Lê Thị Vân Hùng (người chứng kiến), Lê Thị Diễm M và hình dấu Công an Phường 14, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1444g (không phẩy một bốn bốn bốn gam), loại Methamphetamine.

- Gói 5: Bột màu trắng trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Lê Thị Vân Hùng (người chứng kiến), Lê Thị Diễm M và hình dấu Công an Phường 14, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0402g (không phẩy không bốn không hai gam), loại Ketamine.

- Gói 6: được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Lê Thị Vân Hùng (người chứng kiến), Lê Thị Diễm M và hình dấu Công an Phường 14, Quận 6, bên trong có:

+ Tinh thể không màu trong 07 gói nylon cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,4694g (ba phẩy bốn sáu chín bốn gam), loại Methamphetamine.

+ Tinh thể không màu trong 01 đoạn ống nhựa màu đỏ cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0981g (không phẩy không chín tám một gam), loại Methamphetamine.

- Gói 7: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Lê Thị Vân Hùng (người chứng kiến), Lê Thị Diễm M và hình dấu Công an Phường 14, Quận 6 cần giám định có khối lượng 42,4966g (bốn hai phẩy bốn chín sáu sáu gam), không tìm thấy ma túy.

- Gói 8: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Lê Thị Vân Hùng (người chứng kiến), Lê Thị Diễm M và hình dấu Công an Phường 14, Quận 6 cần giám định có khối lượng 281,82g (hai tám một phẩy tám hai gam), không tìm thấy ma túy.

- Gói 9: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Phạm Nguyễn Phước Huy (người chứng kiến), Nguyễn Văn T và hình dấu Công an Phường 14, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0264g (không phẩy không hai sáu bốn gam), loại Methamphetamine.

Đối với Lê Bá T, Nguyễn Văn T có hành vi mua ma túy để sử dụng; Cao Nguyễn Trường A có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng đều chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối với người tên Thiện bán ma túy cho Lê Thị Diễm M, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Đối với Hồng Thụy Quế M, là giáo viên chỉ đến nhà dạy học cho con của Lê Thị Diễm M, không liên quan đến hành vi phạm tội của M, nên truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tại Cáo trạng số: 47/CT-VKS.Q6 ngày 26 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Thị Diễm M về tội «Mua bán trái phép chất ma túy» theo điểm c, điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Lê Nguyễn Trường G về tội «Mua bán trái phép chất ma túy» và tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm b, điểm c khoản 2 Điều 251 và điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị Diễm M khai nhận chính bị cáo, đã thực hiện hành vi mua 1 hộp 5 ma túy tổng hợp (loại ma túy đá) với giá 3.500.000 đồng từ một người tên Thiện (không rõ lai lịch) tại tiệm game bắn cá (gần khu bãi cát trên đường Bà Hom, Phường 13, Quận 6) vào ngày 08/10/2019 rồi đem về nhà phân ra bán với giá từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng/bịch. Ngày 09/10/2018, sau khi bán cho Lê Nguyễn Trường G 01 bịch ma túy đá giá 200.000 đồng, bán cho Nguyễn Văn T 02 bịch ma túy đá giá 900.000 đồng tại trước nhà số 241/27B6/27 đường THĐ, Phường N, Quận F thì bị Công an phát hiện bắt quả tang như nội dung bản cáo trạng nêu và tính đến ngày bị bắt, bị cáo chỉ mới bán ma túy cho G và T lần đầu. Riêng số ma túy khay mà Công an thu giữ trên mặt kính đồng hồ treo tường là của bị cáo mua để dành sử dụng chứ không phải để bán.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Thị Diễm M như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Lê Thị Diễm M từ 09 năm đến 11 năm tù về tội «Mua bán trái phép chất ma túy» theo điểm c, điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 500.000 đồng.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói niêm phong có ghi vụ số 1679/18Q6, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Lê Nguyễn Trường G (ký hiệu: gói 1); 01 gói niêm phong có ghi vụ số 1679/18Q6, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Lê Bá T (ký hiệu: gói 2); 01 gói niêm phong có ghi vụ số 1679/18Q6, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Giám định viên Phan Tấn Quốc, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Nguyễn Văn T, người chứng kiến Phạm Nguyễn Phước Huy (ký hiệu: gói 9); 02 gói niêm phong có ghi vụ số 1679/18Q6, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Lê Thị Diễm M (được ký hiệu: gói 3, gói 4); 04 gói niêm phong có ghi vụ số 1679/18Q6, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Giám định viên Phan Tấn Quốc, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Lê Thị Diễm M (được ký hiệu: gói 5, gói 6, gói 7, gói 8); 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá gồm: nỏ thủy tinh, ống hút bằng nhựa, chai nhựa); 01 nỏ thủy tinh.

Trả lại bị cáo Lê Thị Diễm M 01 chiếc điện thoại di động ghi chữ Iphone màu vàng đồng, Model A1661 FCC LD: BCG-E3087A, IC: 579C-E3087A; 01 chiếc điện thoại di động ghi chữ Iphone màu trắng, Imei: 352003064696626.

Riêng Lê Nguyễn Trường G, do đã chết (theo Giấy báo tử ngày 02/5/2019 của Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh) và ngày 12/5/2019, Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã đình chỉ vụ án đối với bị can Lê Nguyễn Trường G (Quyết định đình chỉ vụ án số: 01/2019/HSST-QĐ), nên không đề cập giải quyết.

Lời nói sau cùng, bị cáo Lê Thị Diễm M nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Lê Thị Diễm M tại phiên tòa với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Kết luận giám định; lời khai của Lê Nguyễn Trường G, của Nguyễn Văn T và của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Thị Diễm M đã phạm tội «Mua bán trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Lê Thị Diễm M đã mua bán chất ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine). Và chất ma túy mà bị cáo cất giữ để bán có khối lượng 9,5659 gam, là phạm tội mua bán trái phép chất ma túy thuộc trường hợp «chất ma túy ở thể rắn có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam». Ngoài ra, bị cáo đã bán ma túy cho Lê Nguyễn Trường G, Nguyễn Văn T, là phạm tội mua bán trái phép chất ma túy thuộc trường hợp «Đối với 02 người trở lên». Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 truy tố bị cáo về tội: «Mua bán trái phép chất ma túy» theo quy định tại điểm c, điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo Lê Thị Diễm M không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc trao đổi, cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Lê Thị Diễm M là người đã trưởng thành, hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra, nhưng do hám lợi, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện mà bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Lê Thị Diễm M là rất nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và Methamphetamine, Ketamine nói riêng là chất gây nghiện có tác hại rất lớn, ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, chưa có tiền án - tiền sự, là lao động chính trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Lê Thị Diễm M còn có thể bị phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 500 trăm triệu đồng. Xét bị cáo là lao động tự do, điều kiện kinh tế còn khó khăn, có ba con nhỏ (có xác nhận của chính quyền, địa phương), vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Việc xử lý vật chứng: 500.000 đồng là tiền bị cáo Lê Thị Diễm M khai phạm tội mà có, nên Hội đồng xét xử tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với 01 gói niêm phong có ghi vụ số 1679/18Q6, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Lê Nguyễn Trường G (ký hiệu: gói 1); 01 gói niêm phong có ghi vụ số 1679/18Q6, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Lê Bá T (ký hiệu: gói 2); 01 gói niêm phong có ghi vụ số 1679/18Q6, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Giám định viên Phan Tấn Quốc, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Nguyễn Văn T, người chứng kiến Phạm Nguyễn Phước Huy (ký hiệu: gói 9); 02 gói niêm phong có ghi vụ số 1679/18Q6, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Lê Thị Diễm M (được ký hiệu: gói 3, gói 4); 04 gói niêm phong có ghi vụ số 1679/18Q6, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Giám định viên Phan Tấn Quốc, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Lê Thị Diễm M (được ký hiệu: gói 5, gói 6, gói 7, gói 8); 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá gồm: nỏ thủy tinh, ống hút bằng nhựa, chai nhựa); 01 nỏ thủy tinh, là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Còn 01 chiếc điện thoại di động ghi chữ Iphone màu vàng đồng, Model A1661 FCC LD: BCG-E3087A, IC: 579C-E3087A; 01 chiếc điện thoại di động ghi chữ Iphone màu trắng, Imei: 352003064696626 thu giữ của bị cáo Lê Thị Diễm M. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo vì không đủ căn cứ xác định bị cáo đã hoặc sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

(theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 190/PNK ngày 15 tháng 11 năm 2018 và Giấy nộp tiền vào tài khoản số: 01/2018 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Công an Quận 6 - BL71, 72, 73)

[6] Đối với Lê Nguyễn Trường G, do bị phù phổi cấp, viêm phổi nặng, nên đã chết tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 01/5/2019 (Giấy báo tử ngày 02/5/2019 của Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch). Ngày 12/5/2019, Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã đình chỉ vụ án đối với bị can Lê Nguyễn Trường G (Quyết định đình chỉ vụ án số: 01/2019/HSST-QĐ), do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Đối với Lê Bá T, Nguyễn Văn T, tuy có hành vi mua ma túy để sử dụng (T mua 0,0188 gam, T mua 0,0264 gam). Xét khối lượng chất ma túy mà Lê Bá T, Nguyễn Văn T cất giữ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, bản thân Lê Bá T, Nguyễn Văn T mới vi phạm lần đầu (chưa có tiền án - tiền sự), do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Đối với Hồng Thụy Quế M, là giáo viên chỉ đến nhà dạy học cho con của Lê Thị Diễm M, không liên quan đến hành vi phạm tội của My. Còn người tên Thiện mà bị cáo Lê Thị Diễm M khai bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra không xác định được, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Quá trình điều tra, Viện kiểm sát cho rằng không đủ cơ sở xác định bị cáo Lê Thị Diễm M có hành vi rủ rê, lôi kéo, tổ chức cho Cao Nguyễn Trường A sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà (địa chỉ 241/27B6/27 đường THĐ, Phường N, Quận F) vào tối ngày 09/10/2018, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo về hành vi này, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[9] Đối với hành vi mua 02 gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu (qua giám định có khối lượng là 324,3166 gam, không tìm thấy ma túy). Viện kiểm sát xác định không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Lê Thị Diễm M về hành vi «Lừa đảo chiếm đoạt tài sản», vì khi biết đó là ma túy giả, Lê Thị Diễm M không bán và cũng không có dự định pha chung với ma túy đá để bán cho người nghiện, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[10] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị Diễm M khai cất giữ 0,0402 gam ma túy ở thể rắn (loại Ketamine) để sử dụng. Xét khối lượng chất ma túy mà bị cáo cất giữ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[11] Bị cáo Lê Thị Diễm M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Lê Thị Diễm M phạm tội: «Mua bán trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm c, điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Lê Thị Diễm M 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/10/2018.

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 500.000 (năm trăm ngàn) đồng.

- Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong có ghi vụ số 1679/18Q6, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Lê Nguyễn Trường G (ký hiệu: gói 1); 01 (một) gói niêm phong có ghi vụ số 1679/18Q6, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Lê Bá T (ký hiệu: gói 2); 01 (một) gói niêm phong có ghi vụ số 1679/18Q6, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Giám định viên Phan Tấn Quốc, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Nguyễn Văn T, người chứng kiến Phạm Nguyễn Phước Huy (ký hiệu: gói 9); 02 (hai) gói niêm phong có ghi vụ số 1679/18Q6, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Lê Thị Diễm M (được ký hiệu: gói 3, gói 4); 04 (bốn) gói niêm phong có ghi vụ số 1679/18Q6, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Giám định viên Phan Tấn Quốc, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Lê Thị Diễm M (được ký hiệu: gói 5, gói 6, gói 7, gói 8); 01 (một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá gồm: nỏ thủy tinh, ống hút bằng nhựa, chai nhựa); 01 (một) nỏ thủy tinh.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bị cáo Lê Thị Diễm M 01 (một) chiếc điện thoại di động ghi chữ Iphone màu vàng đồng, Model A1661 FCC LD: BCG-E3087A, IC: 579C- E3087A; 01 (một) chiếc điện thoại di động ghi chữ Iphone màu trắng, Imei: 352003064696626.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Lê Thị Diễm M phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Lê Thị Diễm M có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2019/HS-ST ngày 30/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về