Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 40/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 31 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 223/2019/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2019 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 121/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Ánh N, sinh năm 1995; địa chỉ: Số 153, ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đ. (Có mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu T, sinh năm 1990; địa chỉ: Số 120, ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đ. (Vắng mặt, Tòa án đã tuyên bố mất tích).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện và tại phiên tòa chị N là nguyên đơn trình bày: Chị N và anh T cưới nhau năm 2013, có đăng ký kết hôn. Chung sống đến tháng 5/2014 thì phát sinh mâu thuẫn do anh T thường xuyên nhậu nhẹt, không lo làm ăn, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Anh T đã bỏ địa phương đi từ tháng 5/2014 đến nay. Ngày 28/3/2019 Tòa án đã tuyên bố anh T mất tích theo yêu cầu của chị N. Quá trình chung sống có 01 con chung tên Nguyễn Tú Q, sinh ngày 13/11/2012 hiện đang sống với chị N. Tài sản chung, nợ chung không có. Nay chị N yêu cầu được ly hôn, yêu cầu tiếp tục nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng. Tài sản, nợ không yêu cầu giải quyết.

 - Anh T đã bị Tòa tuyên bố mất tích bằng Quyết định số: 03/2019/QĐST-DS ngày 28/3/2019. Đến nay không rõ tung tích.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Anh T có nơi cư trú cuối cùng tại ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò, theo quy định tại Điều 28; Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Anh T bị Tòa án tuyên bố mất tích bằng Quyết định số: 03/2019/QĐST-DS ngày 28/3/2019. Đến nay không rõ tung tích nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh T theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân:

Chị N và anh T chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn, được Uỷ ban nhân dân xã Định Yên cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 161 ngày 12/11/2013 nên hôn nhân giữa chị N và anh T là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống có 01 con chung, nhưng khi xảy ra mâu thuẫn, chị N và anh T không cùng nhau chia sẻ, tháo gỡ những bất hòa trong cuộc sống để vợ chồng lo cho con và vun đắp hạnh phúc gia đình. Trái lại, chị N và anh T mỗi người tự lo cuộc sống riêng. Anh T bỏ đi từ năm 2014 đến nay không có tin tức gì, bỏ mặc chị N và con. Anh T bị Tòa án tuyên bố mất tích bằng Quyết định số: 03/2019/QĐST-DS ngày 28/3/2019 theo yêu cầu của chị N. Nay chị N xin ly hôn. Xét thấy chị N và anh T hiện nay đã vi phạm vào Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về tình nghĩa vợ chồng.

Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Điều 19. Tình nghĩa vợ chồng

1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn T, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.”

Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.”

Từ nhận định và điều luật viện dẫn trên, xét thấy yêu cầu xin ly hôn của chị N là có căn cứ.

[2.2] Về nuôi con chung:

Quá trình sống chung, chị N và anh T có 01 con chung tên Nguyễn Tú Q, sinh ngày 13/11/2012 hiện đang sống với chị N.

Xét thấy: Từ khi vợ chồng xa nhau thì con do chị N nuôi dưỡng, vẫn phát triển khỏe mạnh bình thường. Do đó, Hội đồng xét xử giao con cho chị N tiếp tục nuôi là phù hợp. Chị N không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét.

Anh T không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, chị N và các thành viên trong gia đình không được cản trở, theo quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Về chia tài sản và nợ chung: không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Chị N xin ly hôn nên phải nộp án phí sơ thẩm, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 19, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 227, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 27 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị Ánh N.

Chị Phạm Thị Ánh N được ly hôn với anh Nguyễn Hữu T.

2. Về nuôi con chung:

Chị Phạm Thị Ánh N được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Tú Q, sinh ngày 13/11/2012 hiện đang sống với chị N.

Chị Phạm Thị Ánh N không yêu cầu anh Nguyễn Hữu T cấp dưỡng nuôi con. Anh T không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, chị N và các thành viên trong gia đình không được cản trở, theo quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về chia tài sản, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị Ánh N phải nộp đủ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số BH/2018/0002755 ngày 14 tháng 6 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.

5. Án xử công khai. Đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:40/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về