Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 40/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 958/2018/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2019/QĐXX-HNGĐ, ngày 21 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 08 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà A - Sinh năm 1989 (có mặt).

Địa chỉ: Số X đường T, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Bị đơn: Ông B – Sinh năm 1982 (vắng mặt).

Địa chỉ: Số X đường T, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà A trình bày có nội dung như sau:

Tôi (A) và ông B tìm hiểu và tự nguyện đi đến hôn nhân có đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 29/3/2010.

Trong quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc sau đó chúng tôi phát sinh nhiều mâu thuẫn gay gắt, không thể hòa hợp và không thể tiếp tục chung sống được nữa. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau. Chúng tôi đã sống ly thân từ đầu năm 2017 cho đến nay. Năm 2018, tôi có nộp đơn đến Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xin ly hôn với ông B, nhưng sau đó vì thương con tôi đã rút đơn để gia đình đoàn tụ. Tuy nhiên, nay nhận thấy tình cảm vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên nguyện vọng của tôi xin được ly hôn với ông B.

Về con chung: Trong quá trình chung sống tôi và ông B có hai con chung là các cháu A1 – Sinh ngày 09/11/2010 và cháu B1 – Sinh ngày 16/11/2014.

Tôi có nguyện vọng đuợc trực tiếp chăm sóc và nuôi duỡng cả hai cháu A1 và B1 cho đến khi các cháu A1, B1 đủ tuổi trưởng thành, đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi hai con chung tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết vì thu nhập của tôi đảm bảo để nuôi hai con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Chúng tôi tự thỏa thuận giải quyết với nhau nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Đối với bị đơn ông B trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập, niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ nhiều lần theo quy định của pháp luật nhưng ông B vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Tòa án nhân dân Tp Buôn Ma Thuột đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền và quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn bà A có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bị đơn ông B, đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về trình tự, thủ tục tố tụng:

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Tòa án đã triệu tập và niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ nhiều lần theo quy định của pháp luật nhưng ông B vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tiến hành xét xử vắng mặt ông B là phù hợp theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung:

Xét về quan hệ hôn nhân bà A và ông B đi đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 29/3/2010, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống, do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau nên bà A và ông B xảy ra mâu thuẫn. Nay bà A có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông B.

Kết quả xác minh tại địa phương cho biết: Trong quá trình chung sống, thời gian gần đây, giữa bà A và ông B có cãi vã, xích mích, mâu thuẫn với nhau. Nay bà A ly hôn ông B đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Xét thấy mâu thuẫn giữa bà A và ông B đã trầm trọng mà không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà A là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Bà A và ông B có hai con chung là cháu A1 – Sinh ngày 09/11/2010 và cháu B1 – Sinh ngày 16/11/2014. Xét thấy bà A có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung cho đến khi các con chung A1, B1 đủ tuổi trưởng thành. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã nhiều lần triệu tập và niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ cho ông B để làm việc về vấn đề con chung, tuy nhiên ông B không đến Tòa án để làm việc nên không thể hiện nguyện vọng của ông B đối với con chung là như thế nào. Do đó cần giao con chung A1 – Sinh ngày 09/11/2010; B1 – Sinh ngày 16/11/2014 cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà A không yêu cầu ông B phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về án phí: Bà A phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 266; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 51, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 110; Điều 116 và Điều 117 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Chấp nhận đơn khởi kiện về yêu cầu xin ly hôn của bà A đối với ông B.

Bà A được ly hôn với ông B.

Về con chung: Giao con chung A1 – Sinh ngày 09/11/2010 và con chung B1 – Sinh ngày 16/11/2014 cho bà A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các con chung A1, B1 đủ tuổi thành niên.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà A không yêu cầu ông B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con chung.

Ông B có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Bà A phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà bà A đã nộp theo biên lai thu số AA/2017/0008544 ngày 26 tháng 11 năm 2018 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:40/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về