Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 11/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 40/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 11 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở TAND huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 70/2019/TLST-HNGĐ, ngày 20 tháng 5 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 119/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Hồ Quang T, sinh năm 1974 – Có mặt.

Nơi ĐKHKTT: Thôn G, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Chỗ ở hiện nay: Khu phố K, phường T, thị xã U, tỉnh Bình Dương.

- Bị đơn: Chị Chu Thị L, sinh năm 1981 – Có mặt.

Nơi cư trú: Thôn D, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/4/2019, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Hồ Quang T trình bày: Anh và chị Chu Thị L yêu nhau và quyết định đi đến hôn nhân. Vợ chồng đăng ký kết hôn ngày 23/7/2003 tại UBND xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện không ai ép buộc. Sau khi đăng ký kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng về quan điểm sống, cách sống. Sau khi kết hôn được một năm thì chị L yêu cầu được ly hôn nhưng do tín ngưỡng tôn giáo nên hai bên tiến hành gặp cha xứ và thống nhất chỉ ly thân mà không ly hôn. Đến tháng 8/2008, chị L đưa ba con vào miền nam sinh sống được một năm thì quay về. Sau khi quay về, vợ chồng tiếp tục sống chung nhưng vẫn không hòa hợp vì không còn tình cảm. Năm 2011, anh T vào miền nam làm ăn đến năm 2012 thì đưa 03 con vào ở cùng. Đến năm 2013, chị L vào miền nam xin đưa các con về quê 1 để chị chăm sóc thì anh T đồng ý; các con sống với chị L từ đó đến nay. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2011 đến nay, chấm dứt mọi quan hệ tình cảm. Nay anh xét thấy không còn tình cảm với chị L nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị L.

Về con chung: Anh và chị Chu Thị L có 03 con chung là Hồ Văn T, sinh ngày 09/6/2004; Hồ Thị Thúy H, sinh ngày 04/11/2005 và Hồ Văn H, sinh ngày 10/10/2007. Hiện nay 03 con đang sống chung với chị L. Vợ chồng không có con nuôi. Nay ly hôn, anh yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung là Hồ Văn T và Hồ Văn H; đề nghị giao con chung là Hồ Thị Thúy H cho chị L được nuôi dưỡng. Anh không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay, anh đang thuê nhà tại tỉnh Bình Dương và làm công việc tự do, thu nhập không ổn định nhưng tính bình quân khoảng 5.000.000đồng/tháng.

Về tài sản chung: Anh Hồ Quang T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại biên bản lấy lời khai, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn chị Chu Thị L trình bày: Chị thống nhất như lời trình bày của anh Hồ Quang T về thời gian và địa điểm đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn thì vợ chồng chung sống hạnh phúc bình thường. Đến đầu năm 2009, anh T có biểu hiện tình cảm lạnh nhạt với chị. Chị tìm hiểu thì biết anh T có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác nên không quan tâm, chăm sóc vợ con. Sau đó, anh T đi vào Hà Tĩnh làm ăn rồi đi miền nam, không đi lại quan tâm, chăm sóc, không có trách nhiệm đối với chị và các con. Chị và anh T sống ly thân từ năm 2009 đến nay. Nay anh T làm đơn xin ly hôn thì chị không đồng ý vì muốn vợ chồng đoàn tụ để nuôi dạy con cái tốt hơn.

Về con chung: Chị và anh Hồ Quang T có 03 con chung là Hồ Văn T, sinh ngày 09/6/2004; Hồ Văn H, sinh ngày 10/10/2007 và Hồ Thị Thúy H, sinh ngày 04/11/2005. Hiện nay 03 con đang sống chung với chị L, vợ chồng không có con nuôi. Nay ly hôn, chị yêu cầu được nuôi dưỡng 03 con chung vì từ nhỏ và hiện nay đang ở với chị, cuộc sống đang ổn định. Anh T không có trách nhiệm trong việc nuôi dưỡng các con vì anh T bỏ đi miền năm làm ăn và sinh sống từ năm 2009 đến nay không gửi tiền về hỗ trợ với chị nuôi con. Nay chị yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con với mức 2.000.000đồng/tháng/con. Hiện nay, chị đang làm nông nghiệp và làm thêm về lĩnh vực bảo hiểm, thu nhập bình quân khoảng 3.000.000đồng/tháng.

Về tài sản chung: Chị Chu Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kết quả xác minh tại UBND xã Quỳnh Lâm: Bà Hồ Thị X – Chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ xã Quỳnh Lâm cho biết: Anh Hồ Quang T và chị Chu Thị L có đăng ký kết hôn tại UBND xã Quỳnh Lâm. Quá trình chung sống, địa phương không nhận được phản ánh cũng như đơn thư hay yêu cầu H giải từ phía vợ chồng anh T, chị L. Vì vậy, mâu thuẫn vợ chồng giữa anh T và chị L địa phương không nắm rõ. Hiện nay, anh T đang sinh sống và làm việc trong miền nam. Chị L đang sinh sống và làm nông nghiệp tại địa phương cùng với mẹ anh T và các con. Thu nhập của anh T và chị L như thế nào địa phương không nắm rõ. Nay anh T khởi kiện xin ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa; Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định pháp luật tố tụng.

Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Áp dụng các Điều 28, 35 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 56, 58 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hồ Quang T.

Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Hồ Quang T được ly hôn với chị Chu Thị L.

Về con chung: Giao 03 con chung là Hồ Văn T, sinh ngày 09/6/2004, Hồ Văn H, sinh ngày 10/10/2007, Hồ Thị Thúy H, sinh ngày 04/11/2005 cho chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Buộc anh Hồ Quang T cấp dưỡng nuôi con chung với mức 800.000đ đến 1.000.000đồng/tháng/con từ tháng 10/2019 cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xét.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Theo quy định của Điều 28, khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của anh Hồ Quang T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa anh Hồ Quang T và chị Chu Thị L là hợp pháp, tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã do tính tình không hợp nhưng do tín ngưỡng tôn giáo không cho ly hôn nên vợ chồng không làm đơn ly hôn mà chung sống với nhau nhưng chấm dứt mọi quan hệ tình cảm. Theo anh T trình bày vợ chồng sống ly thân từ năm 2011, anh T vào miền nam sinh sống và làm việc, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, không còn quan tâm, chăm sóc nhau trong cuộc sống. Nay, anh T không còn tình cảm với chị L nữa nên yêu cầu ly hôn. Chị L trình bày vợ chồng sống ly thân từ năm 2009 cho đến nay, nay chị L mong muốn vợ chồng đoàn tụ vì mong muốn cùng nuôi dạy con cái. Quá trình Tòa án giải quyết đã phân tích khuyên bàn cho vợ chồng đoàn tụ nhưng không có kết quả. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa anh T và chị L ngày càng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của anh T và cho anh được ly hôn với chị L.

[3] Về con chung: Anh Hồ Quang T và chị Chu Thị L có 03 con chung là Hồ Văn T, sinh ngày 09/6/2004, Hồ Văn H, sinh ngày 10/10/2007, Hồ Thị Thúy H, sinh ngày 04/11/2005. Nay ly hôn, anh T yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung là Hồ Văn T và Hồ Văn H; đề nghị giao con chung là Hồ Thị Thúy H cho chị L được nuôi dưỡng; anh không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con. Chị L yêu cầu được nuôi dưỡng cả ba con chung, yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung với mức 2.000.000đồng/tháng/con.

Xét điều kiện nuôi con của anh T và chị L cho thấy: Từ khi anh T đi miền nam sinh sống từ năm 2011 cho đến nay thì các cháu ở với chị L, cuộc sống và việc học tập của các cháu đang ổn định. Anh T hiện tại đang sinh sống, làm việc và đăng ký tạm trú tại tỉnh Bình Dương, công việc và thu nhập không ổn định, đang ở nhà thuê.

Tại phiên tòa anh T trình bày trong thời gian vợ chồng sống ly thân mỗi năm anh về quê hai đến ba lần, anh có gửi tiền cho chị L nuôi con, mỗi con từ 300.000đ đến 500.000đ. Do đó, nếu giao cho anh T nuôi dưỡng con chung sẽ không đảm bảo được việc học tập và sinh hoạt tốt nhất cho các cháu. Mặt khác, các cháu đều có nguyện vọng được ở với mẹ và không muốn anh em phải chia cách nên cần giao cho chị L được quyền nuôi dưỡng cả ba con chung.

Về mức cấp dưỡng: Chị L hiện nay đang làm nông nghiệp và làm thêm về lĩnh vực bảo hiểm, thu nhập bình quân khoảng 3.000.000đồng/tháng. Nay giao ba con chung cho chị L nuôi dưỡng thì với mức thu nhập trên, việc chị L yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con là phù hợp. Anh T đang làm công việc tự do, thu nhập không ổn định nhưng tính bình quân khoảng 5.000.000đồng/tháng. Với mức thu nhập trên của anh T, việc chị L yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con với mức 2.000.000đồng/tháng/con là cao so với khả năng thu nhập của anh T. Xét mức mức sống và chi phí sinh hoạt phải chi trả cho các cháu theo mức bình quân tại địa phương thì cần buộc anh T cấp dưỡng nuôi con với mức 800.000đồng/tháng/con là phù hợp.

[4] Về quan hệ tài sản: Các đương sự không yêu cầu nên miễn xét.

[5] Về án phí: Anh Hồ Quang T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83, 84, 110, 116, 117 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Hồ Quang T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Hồ Quang T được ly hôn với chị Chu Thị L.

2. Về con chung:

Giao 03 con chung là Hồ Văn T, sinh ngày 09/6/2004; Hồ Văn H, sinh ngày 10/10/2007 và Hồ Thị Thúy H, sinh ngày 04/11/2005 cho chị Chu Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Anh Hồ Quang T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 03 con chung với số tiền là 800.000đồng/tháng/con (Tám trăm nghìn đồng) kể từ tháng 10/2019 cho đến khi các con đủ 18 tuổi thành niên.

Anh Hồ Quang T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Kể từ ngày Quyết định có hiệu lực pháp luật (Đối với các trường hợp cơ quan Thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (Đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật Dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về án phí: Anh Hồ Quang T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004331 ngày 15 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Lưu. Anh Hồ Quang T còn phải nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 11/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:40/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về