Bản án 40/2018/HNGĐ-ST ngày 17/07/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 40/2018/HNGĐ-ST NGÀY 17/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 17/7/2018 tại phòng xử án thuộc trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 154/2018/TLST-HNGĐ ngày 19/4/2018 về việc “Tranh chấp Ly hôn và nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/6/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 61/2018/ QĐST-HNGĐ, ngày 28/6/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Trúc V, sinh năm 1988 (vắng mặt).

Địa chỉ: thôn X, xã An Xuân, huyện T, tỉnh Phú Yên.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1986 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp H, xã X, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

3. Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1952 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp H, xã X, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn, qua xem xét lời khai và yêu cầu của các đương sự, qua xét hỏi trước tòa, nội dung vụ án được xác định như sau:

Theo đơn khởi kiện ngày 02/01/2018, trong quá trình giải quyết vụ án bà Huỳnh Thị Trúc V trình bày: Vào năm 2009, bà V và ông T sống chung với nhau trên tinh thần tự nguyện, đến năm 2010 mới đăng ký kết hôn. Giấy CN kết hôn do UBND xã X cấp ngày 29/3/2010. Ông bà có 01 con chung là Nguyễn Huỳnh Khánh N, sinh ngày 07/10/2009, hiện đang sống với bà V. Do ông T thường hay rượu chè, không quan tâm đến vợ con, còn hay đánh đập bà V nên khoảng tháng 6/2010, không thể chịu nổi cảnh chồng thường hay đánh đập nên bà V bồng con về nhà cha mẹ ruột ở và sống ly thân đến nay. Nhận thấy vợ chồng sống không thể hàn gắn, hôn nhân không thể tồn tại, nay bà V yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

- Về hôn nhân: Bà V yêu cầu được ly hôn với ông T.

- Về con chung: Bà V yêu cầu được nuôi con chung là Nguyễn Huỳnh Khánh N cho đến khi cháu N đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn T: Từ khi Tòa án thụ lý giải quyết cho đến nay, ông T không tham gia tố tụng nên Tòa án không thể thu thập được lời khai và yêu cầu của ông T.

Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 như thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định tư cách đương sự, quan hệ tranh chấp, thu thập chứng cứ. Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật. Đối với bị đơn: Không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.

Về nội dung giải quyết vụ án: Về hôn nhân, bà V và ông T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Do cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, hôn nhân không thể tồn tại nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà V; Về con chung: Nguyện vọng của cháu N muốn sống với mẹ là bà V nên cần ổn định để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu. Đề nghị hội đồng xét xử căn cứ Điều 56, khoản 3 Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2018, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị Trúc V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét thấy tại phiên tòa, nguyên đơn bà Huỳnh Thị Trúc V vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do, người làm chứng bà Nguyễn Thị X vắng mặt nhưng có yêu cầu xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 và 3 Điều 228, Điều 229, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn và người làm chứng.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị Trúc V và ông Nguyễn Văn T chung sống với nhau trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên được pháp luật công nhận hôn nhân của ông bà là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, bà V nhận thấy ông T thường hay rượu chè, không quan tâm đến vợ con, còn hay dùng vũ lực đối với bà nên khoảng tháng 6/2010, bà V bồng con về nhà cha mẹ ruột ở và sống ly thân đến nay. Đối với ông T, từ khi Tòa án thụ lý đến nay, ông T không tham gia tố tụng, nên Tòa án không thu thập được lời khai và yêu cầu của ông T. Việc ông T không tham gia tố tụng đã thể hiện ông không có ý chí muốn hàn gắn quan hệ hôn nhân với bà V. Hội đồng xét xử thấy rằng, quan hệ hôn nhân phải được xây dựng trên cơ sở tự nguyện của hai bên, bà V và ông T sống ly thân hơn 08 năm nay, đã thể hiện ông bà không có ý chí muốn hàn gắn quan hệ hôn nhân, từ đó cho thấy cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không thể đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà V.

[2.2] Về con chung: Bà V và ông T có 01 con chung là Nguyễn Huỳnh Khánh N, sinh ngày 07/10/2009, hiện đang sống với bà V. Bà V có yêu cầu được nuôi con chung. Còn ông T không tham gia tố tụng, nên Tòa án không thu thập được yêu cầu về con chung. Ý kiến của Nguyễn Huỳnh Khánh N là có nguyện vọng được sống với mẹ để tiện việc học hành, nếu cha mẹ ly hôn. Ngoài ra, bà nội cháu Ngọc là bà Đinh Thị X cũng xác nhận cháu N đã sống với mẹ từ năm 2010 đến nay và đã được mẹ chăm lo đầy đủ, bà X cho rằng ông T cũng đồng ý cho bà V nuôi con, không có ý kiến gì. Phòng Lao động thương binh và xã hội huyện Kế Sách đã đề nghị Tòa án xem xét giao Nguyễn Huỳnh Khánh N cho mẹ ruột nuôi để N có điều kiện học tập và phát triển toàn diện, lành mạnh. Từ đó Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giao con chung của bà V và ông T tên Nguyễn Huỳnh Khánh N cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà V không yêu cầu giải quyết cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà V không yêu cầu giải quyết, ông T không thể hiện yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát: Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách như đã phân tích trên.

[4] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 35; Điều 147; khoản 1 và 3 Điều 228, 229, 238, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,

TUYÊN XỬ:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị Trúc V.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị Trúc V được ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao con chung của bà Huỳnh Thị Trúc V và ông Nguyễn Văn T tên Nguyễn Huỳnh Khánh N, sinh ngày 07/10/2009 cho bà Huỳnh Thị Trúc V trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi Nguyễn Huỳnh Khánh N đủ 18 tuổi. Ghi nhận sự tự nguyện của bà V về việc không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Ông T được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung, không ai có quyền ngăn cản.

3. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng, bà Huỳnh Thị Trúc V phải chịu là 300.000 đồng, được khấu trừ vào Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001145 ngày 17/4/2018 do Chi cục thi hành án dân sự huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng đã thu.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đối với người vắng mặt được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật, để Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xử phúc thẩm.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a ,7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2018/HNGĐ-ST ngày 17/07/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:40/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về