Bản án 40/2017/HS-ST ngày 27/07/2017 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 40/2017/HS-ST NGÀY 27/07/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 27 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2017/HSST ngày 23 tháng 6 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2017/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo: 

Nguyễn Thị B, sinh năm 1971 tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: khu phố LD, thị trấn TB, huyện TB, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn T và bà Trần Thị T(cả hai đã chết); có chồng là Nguyễn Văn S; con: Không có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 16 giờ 10 phút ngày 23/4/2017, Công an thị trấn Trảng Bàng bắt quả tang Nguyễn Thị B đang bán số đề tại nhà thuộc khu phố LD, thị trấn TB, huyện TB, tỉnh Tây Ninh. Vật chứng thu giữ tiền Việt Nam 2.070.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 4, 01 tờ phơi đề.

Qua điều tra, Nguyễn Thị B khai nhận: Bắt đầu bán số đề từ tháng 03/2017 đến ngày bị bắt, mỗi ngày có khoảng từ 05 đến 10 người nhắn tin vào điện thoại di động hiệu Iphone 4 (số Sim 0938.122.870) của Bạc hoặc trực tiếp đến gặp Bạc tại nhà để mua số đề với số tiền thấp nhất là 4.000.000 đồng, cao nhất là 11.555.000 đồng. Sau đó, Bạc tổng hợp thành phơi đề và giữ lại thầu. Qua kiểm tra nội dung tin nhắn trong 01 điện thoại di động và 01 tờ phơi đề thu giữ của Bạc, thể hiện: Vào ngày 23/4/2017, Bạc bán số đề theo kết quả xổ số kiến thiết tỉnh Tiền Giang cho 09 người với số tiền dùng đánh bạc là 11.555.000 đồng.

Những người mua số đề của Bạc với số tiền dùng đánh bạc của từng người, gồm: Phan Minh Luân 530.000 đồng, Phạm Thị Rỉ 268.000 đồng, Đỗ Trường Giang 1.949.000 đồng, Nguyễn Đức Duy 3.552.000 đồng, Nguyễn Văn Lóc 335.000 đồng, Nguyễn Thị Tươi 572.000 đồng, Trần Quốc Tuấn 67.000 đồng và nhiều người khác (không rõ họ tên, địa chỉ).

Vật chứng thu giữ: 01 cái điện thoại di động Iphone 4, màu trắng bạc, số IMEI: 013591004429349, 01 sim điện thoại; tiền Việt Nam: 2.070.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, vật chứng bị thu giữ như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Bản Cáo trạng số: 41/QĐ/KSĐT ngày 25 tháng 6 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị B về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 248 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 248, Điều 30, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Thị B từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999 và Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: tịch thu sung công quỹ tiền Việt Nam 2.070.000 đồng và 01 điện thoại di động Iphone 4, màu trắng bạc, số IMEI: 013591004429349, 01 sim điện thoại.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: vì mục đích tư lợi cá nhân, muốn có thu lợi bất chính cao bằng con đường cờ bạc bất chấp pháp luật nên từ đó dẫn bị cáo đến con đường phạm tội, cụ thể vào ngày 23/4/2017, bị cáo Nguyễn Thị B đã thực hiện hành vi bán số đề theo kết quả xổ số kiến thiết tỉnh Tiền Giang cho Phan Minh L, Phạm Thị R, Đỗ Trường G, Nguyễn Đức D, Nguyễn Văn L, Nguyễn Thị T, Trần Quốc T cùng nhiều người khác với số tiền dùng đánh bạc là 11.555.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thị B phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999.

 [3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp trật tự công cộng, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi đã thực hiện vì vậy cần có hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bị cáo đã thực hiện để giáo dục và phòng ngừa chung.

 [4] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tình tiết tăng nặng: không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999.

Bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú ổn định, địa chỉ rõ ràng và hiện có số tiền 30.000.000 đồng đang gửi tiết kiệm tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam nên cần áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo là có cơ sở.

 [5] Đối với Phan Minh L, Phạm Thị R, Đỗ Trường G, Nguyễn Đức D, Nguyễn Văn L, Nguyễn Thị T, Trần Quốc T có tham gia mua số đề của Bạc với số tiền chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện Trảng Bàng đã xử phạt vi phạm hành chính.

Riêng Phan Minh L đã đi khỏi địa phương và những người không rõ họ tên, địa chỉ nên không làm việc được, Cơ quan điều tra đang tiếp tục làm rõ để xử lý sau.

 [6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 41 của Bộ luật hình sự và Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với tiền Việt Nam 2.070.000 đồng thu giữ trong người bị cáo là tiền bị cáo thu từ việc đánh bạc nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước .

Đối với 01 điện thoại di động Iphone 4, màu trắng bạc, số IMEI: 013591004429349, 01 sim điện thoại. Bị cáo có sử dụng các thiết bị này để ghi đề và liên hệ với những người chơi, xét những thiết bị này vẫn còn giá trị sử dụng nên tịch thu, sung quỹ Nhà nước.

 [7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị B phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 248, Điều 30, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị B số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, nếu quá hạn này mà bị cáo chưa thi hành số tiền trên thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự; Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone 4, màu trắng bạc, số IMEI: 013591004429349, 01 sim điện thoại; tiền Việt Nam 2.070.000 đồng. Vật chứng trên hiện Cơ quan Thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng đang quản lý.

 (Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/7/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 98, 99 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo Nguyễn Thị B phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2017/HS-ST ngày 27/07/2017 về tội đánh bạc

Số hiệu:40/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về