Bản án 40/2017/HNGĐ-ST ngày 31/07/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 40/2017/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 31 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 168/2017/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2017/QĐXX-ST ngày 20 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Bích N, sinh năm 1965

Địa chỉ: Khu N, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thái Bình

2. Bị đơn: Anh Lê Xuân H, sinh năm 1951

Địa chỉ: Thôn Đ, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình

(Tại phiên toà có mặt chị N. Anh H có đơn xin giải quyết vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai và tại phiên toà, nguyên đơn là Chị Vũ Thị Bích N trình bày:

Chị kết hôn với Anh Lê Xuân H do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường L, thị xã T (nay là thành phố T), tỉnh Thái Bình vào ngày 23/02/1986. Do thời gian quá lâu nên chị không lưu giữ được giấy đăng ký kết hôn và đã có xác nhận của UBND phường L. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hoà thuận đến năm 1995 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do Anh H chơi cờ bạc dẫn đến kinh tế gia đình khó khăn. Đến năm 2003 Anh H bỏ trốn đi Đ vì làm thụt ngân quỹ của Xí nghiệp D Thái Bình nơi Anh H công tác. Năm 2004 Anh H bị bắt và bị Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt 09 năm tù. Năm 2011 Anh H ra tù và về sinh sống tại Thôn Đ, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình cho đến nay, còn chị sinh sống tại thị trấn H, huyện H, tỉnh Thái Bình. Chị và Anh H đã ly thân từ năm 2003 cũng như từ khi Anh H ra tù cho đến nay chị và Anh H không chung sống cùng nhau và không quan tâm đến nhau. Nay chị xác định không thể tiếp tục cuộc hôn nhân với Anh H được nữa nên xin ly hôn anh H.

Chị và Anh H có 02 con chung là Lê Thu H, sinh ngày 05/11/1986 và Lê Vũ Ngọc H, sinh ngày 21/6/1994. Hiện hai con chung đã đủ 18 tuổi trưởng thành nên không đặt trách nhiệm nuôi dưỡng.

Về tài sản: Chị N khai chị và Anh H không có tài sản gì chung, vợ chồng không nợ ai tài sản gì. Chị không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản.

Bị đơn là Anh Lê Xuân H trong đơn xin giải quyết vắng mặt đề ngày 10/7/2017 đã trình bày về điều kiện, hoàn cảnh kết hôn đúng như chị N khai. Quá trình chung sống giữa anh và chị N hoà thuận đến năm 2004 thì anh bị bắt đi tù cho đến năm 2011 anh ra tù thì phát hiện chị N có quan hệ với người đàn ông khác, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và không chung sống cùng nhau. Hiện chị N đang sinh sống tại huyện H, tỉnh Thái Bình còn anh đang sinh sống tại xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Nay chị N xin ly hôn, anh nhất trí ly hôn với chị N.

Về con chung: Anh H xác nhận anh và chị N có 02 con chung như chị N đã khai.

Hai con chung hiện đã đủ tuổi trưởng thành nên không đặt trách nhiệm nuôi dưỡng.

Về tài sản: Anh H khai anh và chị N không có tài sản gì chung, không có khoản nợ chung nào. Anh không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Anh Lê Xuân H có đơn xin giải quyết vắng mặt đề ngày 10/7/2017.

Căn cứ vào khoản 1 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa Chị Vũ Thị Bích N và Anh Lê Xuân H xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được UBND phường L, thị xã T đăng ký kết hôn vào năm 1986 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, theo chị N khai vợ chồng chung sống hòa thuận cho đến năm 1995 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do Anh H chơi cờ bạc nên kinh tế gia đình khó khăn. Năm 2004 Anh H bị bắt đi tù cho đến năm 2011 Anh H ra tù nhưng vợ chồng không chung sống cùng nhau, không quan tâm đến nhau; vợ chồng đã chính thức ly thân từ năm 2003 cho đến nay. Chị xác định không thể tiếp tục cuộc hôn nhân với Anh H được nữa và xin ly hôn anh H. Anh H xác định vợchồng đã ly thân từ năm 2004 khi anh bị bắt đi tù cho đến năm 2011 anh ra tù thì phát hiện chị N có quan hệ với người đàn ông khác và vợ chồng cũng không chung sống cùng nhau. Anh H nhất trí ly hôn với chị N. Xét mâu thuẫn giữa chị N và Anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu của chị N, xử cho chị N được ly hôn Anh H là phù hợp với điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Hai con chung của chị N, Anh H đều đã đủ 18 tuổi trưởng thành nên không đặt trách nhiệm nuôi dưỡng.

Về quan hệ tài sản: Chị N và Anh H đều khai vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung và không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho Chị Vũ Thị Bích N được ly hôn Anh Lê Xuân H.

2. Về án phí: Chị Vũ Thị Bích N phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng chị N đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003333 ngày 16/6/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ thành tiền án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị Bích N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Anh Lê Xuân H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2017/HNGĐ-ST ngày 31/07/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:40/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về