Bản án 401/2018/DS-ST ngày 08/08/2018 về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 401/2018/DS-ST NGÀY 08/08/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG SỬ DỤNG THẺ TÍN DỤNG

Ngày 08 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 2075/2017/TLST-DS ngày 20 tháng 11 năm 2017 về “Tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3168/2018/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 6 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 3599/2018/QĐST-DS ngày 20 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng A; Địa chỉ trụ sở: Lầu 1, số 20-21 đường Nam B, Phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1984, người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 1228/2017/UQ-TTT ngày 26 tháng 10 năm 2017)

2. Bị đơn: Ông Phan Văn V, sinh năm 1974; Địa chỉ: 44/7 đường U, phường Y, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 26 tháng 10 năm 2017, các bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày:

Ngày 28 tháng 5 năm 2012, ông Phan Văn V có ký với Ngân hàng A Thương Tín hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng - các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng). Căn cứ thu thập của ông V, Ngân hàng đã đồng ý cấp 02 loại thẻ tín dụng, loại thẻ Family và loại thẻ Visa với hạn mức sử dụng là 45.000.000 đồng với mục đích tiêu dùng cá nhân.

Trong quá trình sử dụng thẻ, ông V vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 23 tháng 3 năm 2014 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Ngân hàng đã thường xuyên đôn đốc, nhiều lần làm việc trực tiếp, yêu cầu thanh toán ngay khoản nợ quá hạn, đồng thời tạo điều kiện về mặt thời gian để ông V trả nợ, tuy nhiên ông V vẫn chưa thanh toán khoản nợ vay quá hạn cho Ngân hàng, vi phạm các điều khoản đã quy định tại Hợp đồng đã ký.

Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông V phải trả ngay cho Ngân hàng 15.402.964 đồng nợ gốc (nợ gốc của thẻ Visa là 6.081.289 đồng, nợ gốc của thẻ Family là 9.321.675 đồng) và 48.826.947 đồng nợ lãi quá hạn tạm tính đến ngày 08 tháng 8 năm 2018 (lãi quá hạn của thẻ Visa là 10.334.997 đồng, lãi quá hạn của thẻ Family là 38.491.950 đồng), tổng cộng là 64.229.911 đồng. Tiền lãi tiếp tục phát sinh trên số nợ gốc từ ngày 09 tháng 8 năm 2018 cho đến khi trả dứt nợ gốc theo lãi suất quy định Hợp đồng.

Bị đơn là ông Phan Văn V không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án.

Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt;

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung vụ án: Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

[1] Nguyên đơn là Ngân hàng A khởi kiện tranh chấp hợp đồng thẻ tín dụng với bị đơn ông Phan Văn V, cư trú tại số 44/7 đường U, phường Y, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Bị đơn vắng mặt tại các phiên hòa giải mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai nên căn cứ khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án không tiến hành hoà giải được.

[3] Bị đơn không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo mặc dù đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án là vi phạm nghĩa vụ giao nộp chứng cứ. Do đó Tòa án căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án dựa trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do nguyên đơn giao nộp và do Tòa án thu thập được.

[4] Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[5] Giao dịch của các đương sự được thực hiện vào năm 2012 thời điểm Bộ luật dân sự 2005 có hiệu lực pháp luật, do đó Hội đồng xét xử căn cứ Bộ luật dân sự 2005 để giải quyết tranh chấp giữa các đương sự.

Về nội dung:

[6] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả toàn bộ số tiền còn nợ tính đến ngày 08 tháng 8 năm 2018 là 64.229.911 đồng, trong đó nợ gốc là 15.402.964 đồng và nợ lãi quá hạn tạm tính đến ngày 08 tháng 8 năm 2018 là 48.826.947 đồng, Hội đồng xét xử xét thấy:

[7] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có cơ sở xác định bị đơn đã ký Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng ngày 28 tháng 5 năm 2012 và đã được nguyên đơn cấp 02 thẻ tín dụng Visa và Family với hạn mức tín dụng là 45.000.000 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, bị đơn đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 63.448.000 đồng, đã thanh toán 75.314.022 đồng (bao gồm nợ gốc và lãi), dư nợ gốc còn lại là 15.402.964 đồng. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 23 tháng 3 năm 2014 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của bị đơn và chuyển toàn bộ dư nợ gốc là 15.402.964 đồng sang nợ quá hạn theo quy định tại Điều 23 của Bản điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng A với lãi suất quá hạn là 3,225%/tháng đối với thẻ Visa và 3,75%/tháng đối với thẻ Family.

[8] Xét về lãi suất cho vay, căn cứ Điều 22 của Bản điều khoản và và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng quy định “…áp dụng lãi suất nợ quá hạn (là 150% của lãi suất được công bố áp dụng tại thời điểm hiện tại) phù hợp với Điều 22 đối với toàn bộ dư nợ theo quy định của đơn vị phát hành thẻ..”.

[9] Căn cứ vào khoản 2 Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 quy định: “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật” và Điều 11 Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng (Ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) quy định: “1. Mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 2. Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do tổ chức tín dụng ấn định và thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng”. Do đó, mức lãi suất nguyên đơn áp dụng để tính lãi quá hạn cho bị đơn là không trái với quy định của pháp luật.

[10] Như vậy, bị đơn đã không thanh toán các khoản nợ sau khi hết thời hạn vay cho nguyên đơn là vi phạm nghĩa vụ thanh toán, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của nguyên đơn. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán toàn bộ số nợ gốc là 15.402.964 đồng và nợ lãi quá hạn tạm tính đến ngày 08 tháng 8 năm 2018 là 48.826.947 đồng, tổng cộng là 64.229.911 đồng là có cơ sở pháp lý quy định tại các Điều 471, 474 và 476 Bộ luật dân sự năm 2005, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về thời hạn thanh toán: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán một lần số tiền nợ gốc và lãi quá hạn ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Căn cứ nội dung thỏa thuận tại hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng hai bên đã ký kết, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán từ ngày 23 tháng 3 năm 2014. Căn cứ Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, xét yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

[12] Về án phí: Do toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2106 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 3.211.496 đồng. Hoàn trả lại cho nguyên đơn 1.460.236 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp.

[13] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định tại Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các điều 471, 474 và 476 Bộ luật dân sự 2005; Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A Buộc ông Phan Văn V phải thanh toán cho Ngân hàng A 64.229.911 (Sáu mươi bốn triệu hai trăm hai mươi chín nghìn chín trăm mười một) đồng bao gồm 15.402.964 (Mười lăm triệu bốn trăm lẻ hai nghìn chín trăm sáu mươi bốn) đồng nợ gốc và 48.826.947 (Bốn mươi tám triệu tám trăm hai mươi sáu nghìn chín trăm bốn mươi bảy) đồng tiền lãi tính đến ngày 08 tháng 8 năm 2018 theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 28 tháng 5 năm 2012; Thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông Phan Văn V phải tiếp tục chịu lãi phát sinh trên khoản nợ gốc theo mức lãi suất nợ quá hạn của Ngân hàng A cho đến khi ông Nguyễn V Hân thanh toán xong khoản nợ gốc này. Mức lãi suất này sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng A được quy định tại Bản điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng.

2. Về án phí: Ông Phan Văn V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 3.211.496 (Ba triệu hai trăm mười một nghìn bốn trăm chín mươi sáu) đồng; Ngân hàng A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; Hoàn trả lại cho Ngân hàng A 1.460.236 (Một triệu bốn trăm sáu mươi nghìn hai trăm ba mươi sáu) đồng tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp theo biên lai số AA/2017/0022321 ngày 17 tháng 11 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Về quyền kháng cáo: Ngân hàng A, ông Phan Văn V vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

498
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 401/2018/DS-ST ngày 08/08/2018 về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng

Số hiệu:401/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về