Bản án 399/2019/HS-PT ngày 11/09/2019 về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 399/2019/HS-PT NGÀY 11/09/2019 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ HTML số 326/2019/HSPT ngày 12/8/2019 đối với bị cáo Nguyễn Tuấn Đ, do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với bản án hình sự sơ thẩm số 100/2019/HSST ngày 25/06/2019 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo bị kháng nghị:

Nguyễn Tuấn Đ; sinh năm 1999, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 36/20, Tổ 18, Khu phố 2, phường TTN, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 12; Nghề nghiệp: Sinh viên; Con ông Nguyễn Ngọc A và bà Chung Thị Kim O; Hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;

- Bị bắt, tạm giam từ ngày 27/8/2018 (Có mặt).

Bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng nghị (nên không triệu tập).

Nguyễn Phước a, Trương Hoài b, Dương Nhật c, Phạm Hoàng d, Trần Phi e, Nguyễn Hoàng f, Bị cáo Nguyễn Long g, Võ Trường h.

Bị hại:

1. Ông Dương Tấn B, sinh năm 1997; Thường trú: Số 13/8 Đường TTN 12, Khu phố 2, phường TTN, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

2. Bà Lê Thị Hồng C, sinh năm 1999; Thường trú: Số 9/42, Đường TTN 13, Tổ 48, Khu phố 3, phường TTN, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 20h00’ ngày 27/6/2018, khi đang ngồi uống nước bên hông nhà số 55/1C đường TTN, phường TTN, Quận 12, Nguyễn Phước a rủ Dương Nhật c, Trần Phi e, Nguyễn Tuấn Đ đi cướp tài sản thì tất cả đồng ý. a gọi điện thoại cho Phạm Hoàng d rủ cùng đi cướp tài sản thì Hoàng d đồng ý và rủ thêm Trương Hoài b. Trước khi đi, e đưa cho a một con dao bấm màu đen dùng làm hung khí.

Đến 22h15’ cùng ngày, a, c, Đ, e, Hoàng d và Hoài b đi đến công viên thuộc đường 01, tổ 54D, Khu phố 4, phường TTN, Quận P thì phát hiện anh Dương Tấn Đ và chị Lê Thị Hồng C đang ngồi nói chuyện với nhau trên ghế đá. Lúc này, cả bọn dừng xe lại, Hoài b và Đ đứng ngoài trông xe, làm nhiệm vụ cảnh giới; còn a, c, e và Hoàng d áp sát vị trí của anh Đ và chị C ngồi. Đồng thời, A rút dao bấm ra chỉ vào anh Đ dọa “phải thằng này không, ngồi im”, bất ngờ anh Đ phản kháng nên A đâm vào lưng bên trái của anh Đ và yêu cầu anh Đ lấy bóp tiền và điện thoại đưa cho A. Còn e chiếm đoạt điện thoại di động Oppo A37 trên tay chị C đưa cho c cầm, rồi tiếp tục lục soát tài sản trên người chị C; cướp được tài sản cả bọn tẩu thoát. Sau đó, e đưa cho a chiếc điện thoại Oppo A37, a kiểm tra lấy trong bóp tiền vừa cướp được 650.000 đồng rồi vứt bóp vào đống rác bên đường. a đem chiếc điện thoại Oppo F5 cướp được của anh Đ đến tiệm điện thoại di động trên Đường TC, phường TTN, Quận P bán được 1.200.000 đồng và chia cho c, e, Đ, Hoài b, Hoàng d mỗi người 350.000 đồng, a giữ lại 100.000 đồng và điện thoại Oppo A37. Đến ngày 30/6/2018 a bán chiếc điện thoại Oppo A37 cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) với giá 400.000 đồng.

Sau khi sự việc xảy ra anh Đ, chị C đến Công an trình báo sự việc. anh Đ không yêu cầu giám định tỉ lệ thương tật đối với vết thương do A dùng dao đâm vào lưng.

Theo bản kết luận định giá tài sản tố tụng hình sự số 452/KLĐG ngày 03/10/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự Quận 12 kết luận: Không đủ cơ sở để tiến hành định giá 01 điện thoại di động hiệu Oppo F5 và 01 điện thoại di động hiệu Oppo A37.

Vụ thứ 2: Khoảng 21h00’ ngày 25/7/2018, Nguyễn Phước A và Nguyễn Hoàng f đang ngồi bên hông nhà số 55/1C đường TTN 01, Khu phố 7, phường TTN, Quận P thì Võ Trường h và Trần Phi e đến rủ đi cướp tài sản thì A và f đồng ý. Thành điều khiển xe gắn máy chở a, còn Giang điều khiển xe gắn máy chở e đi tìm tài sản để cướp.

Khoảng 00h15’ ngày 26/7/2018, cả nhóm đi đến trước nhà số 71, Lô I9, đường DD5, phường THT Quận P thì phát hiện Lê Thanh G và Hồ Thùy D đang ngồi trên ghế đá trước nhà. Lúc này, cả nhóm dừng xe cách vị trí anh G và chị D ngồi khoảng 02m. h và f ngồi trên xe máy, còn a và e đến áp sát vị trí anh G và chị D đang ngồi, A dùng tay phải kẹp cổ anh G để e chiếm đoạt bóp tiền trong túi quần của anh G rồi lên xe máy tẩu thoát. Cả nhóm kiểm tra trong bóp tiền vừa cướp được có 1.115.000 đồng cùng một số giấy tờ cá nhân. A chia cho f, e và h mỗi người 270.000 đồng, còn lại a cất giữ. Đồng thời, a đưa cho h các giấy tờ cá nhân rồi ném bỏ chiếc bóp. Đến ngày 04/8/2018, anh G và chị D đến Công an trình báo sự việc.

Ngày 26/8/2018, Võ Trường h đã giao nộp tại Công an phường THT, Quận P các giấy tờ tùy thân mang tên Lê Thanh G.

Vụ thứ 3: Khoảng 19h00’ ngày 17/8/2018, Võ Trường h điều khiển xe gắn máy chở Nguyễn Long g đi tìm người có tài sản để cướp giật. Đến khoảng 19h30’ cùng ngày, khi đi đến trước nhà số 43-47 đường ĐHT 30, phường ĐHT, Quận P thì phát hiện chị Võ Thị Ngọc E đang điều khiển xe máy có đeo một túi xách bên trái nên h điều khiển xe máy áp sát phía bên trái xe máy của chị E để g ngồi sau dùng tay phải giật chiếc túi xách của chị E rồi tẩu thoát. Bên trong túi xách có 4.000.000 đồng, 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng có đính hạt màu đỏ, 01 điện thoại di động Oppo F5. Giang lấy số tiền 3.000.000 đồng, 01 chiếc nhẫn và chia cho g 1.000.000 đồng và chiếc điện thoại Oppo F5, rồi vứt túi xách đi về nhà. Sau đó, h mang chiếc nhẫn trên đến tiệm vàng trên đường PVH, phường TTN, Quận P bán được 900.000 đồng, còn g đem chiếc điện thoại Oppo F5 đến tiệm cầm đồ TP trên đường PVH, phường TTN, Quận P cầm với giá 2.500.000 đồng.

Ngày 17/8/2018, chị Võ Thị Ngọc E đến Công an trình báo sự việc.

Ngày 26/8/2018, Hoàng Minh L tự nguyện giao nộp 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo F5 và 01 hợp đồng cầm cố tài sản của Nguyễn Long g.

Theo bản kết luận định giá tài sản tố tụng hình sự số 453/KLĐG ngày 03/10/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự Quận 12 kết luận: Không đủ cơ sở để tiến hành định giá 01 điện thoại di động hiệu Oppo F5, màu vàng, có số Imei: 867816030748512 và 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng, có hạt đính màu đỏ.

Theo bản kết luận định giá tài sản tố tụng hình sự số 493/KLĐG ngày 24/10/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự Quận 12 kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Oppo F5, màu vàng, số Imei: 867816030748512 có giá 3.900.000 đồng.

Vụ thứ 4: Khoảng 01h30’ ngày 10/8/2018, Võ Trường h gọi điện thoại rủ Trương Hoài b đi cướp tài sản thì b đồng ý. h điều khiển xe máy Honda Wave màu đỏ đến nhà b rồi đưa xe cho b chở h đi tìm người có tài sản để cướp. Trước khi đi, h chuẩn bị một cây roi điện màu đen cất giấu trong người. b chở h đến Quốc lộ 03 thuộc xã BĐ, huyện M thì phát hiện chị HTML đang điều khiển xe gắn máy Honda Vision nên cả 02 bám theo. Khi đến trước công trường Tiểu học BVN (thuộc xã BĐ, huyện HM) thì Thanh điều khiển xe áp sát vào bên trái xe chị HTML, h đưa roi điện ra hướng về phía chị HTML đe dọa làm cho chị HTML hoảng sợ bỏ xe lại, chạy bộ đến trước cổng trường Tiểu học BVN và truy hô “Cướp! cướp!”. h tiếp tục đuổi theo, chỉ roi điện về hướng chị HTML bấm phát ra tia lửa. Lúc này, bảo vệ của trường Tiểu học BVN rọi đèn pin ra nên h không đuổi theo nữa mà quay lại dựng chiếc xe của chị HTML lên và chiếm đoạt tẩu thoát. h điều khiển xe máy vừa cướp được của chị HTML mang về cất giấu tại nhà số 45/8K ấp ĐL, xã BĐ, huyện M rồi tháo biển số xe bỏ vào túi nilon đưa cho b ném vào thùng rác. Giang yêu cầu b để chiếc xe của chị HTML cho h sử dụng và h bán chiếc xe Honda Wave màu đỏ cho b, b phải trả thêm cho h 2.000.000 đồng thì b đồng ý và lấy xe đi nhưng chưa trả tiền. h lấy biển số 60H9-3968 gắn vào xe máy Honda Wave màu đỏ nêu trên, riêng cây roi điện dùng để cướp tài sản h đánh rơi trên đường. Ngày 17/8/2018, h sử dụng xe máy Honda Vision cùng Nguyễn Long g đi cướp giật tài sản tại phường ĐHT, Quận 12. Sau đó, h bán xe máy này cho đôi nam nữ (không rõ lai lịch) với giá 7.500.000 đồng và h đã tiêu xài hết.

Ngày 13/8/2017, chị HTML đến Công an trình báo sự việc.

Theo bản kết luận định giá tài sản tố tụng hình sự số 198/KLĐG ngày 27/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện M kết luận:

01 xe gắn máy hiệu Honda Vision biển số 59Y1-72814 màu đỏ có trị giá là 22.000.000 đồng.

Ngoài ra, vào khoảng đầu tháng 8/2018, Võ Trường h, Nguyễn Hoàng f và Trần Phi e còn thực hiện hành vi cướp tài sản là 01 chiếc xe máy hiệu Honda Wave S màu đỏ, biển số 93H1-099.xx của một người phụ nữ (chưa xác định lai lịch) tại trước địa chỉ B3/1, Ấp 2, xã VL, huyện BC. Xác minh tại Công an xã VL, huyện BC trong khoảng thời gian đầu tháng 8/2018, không có tiếp nhận tin báo, tố giác về việc bị cướp xe máy Honda Wave S. Qua xác minh chiếc xe trên do NTL (thường trú tại ĐC, BGM) đứng tên sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận P đã gửi thông báo chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện BC điều tra xử lý theo thẩm quyền.

Đối với Nguyễn Thị Thùy D có mua chiếc điện thoại di động Oppo F5 của Nguyễn Phước a với số tiền 1.200.000 đồng nhưng không biết là tài sản do A phạm tội mà có; NVA đã mua của h 01 chiếc nhẫn kim loại màu vàng có đính hột đá màu đỏ với giá 900.000 đồng nhưng không biết là tài sản do phạm tội mà có và đã nung chảy chiếc nhẫn vàng nên không thu hồi được tài sản; Hoàng Minh L cầm cố chiếc điện thoại di động hiệu Oppo F5 màu vàng từ Nguyễn Long g với số tiền 2.500.000 đồng nhưng không biết là tài sản do phạm tội mà có và đã tự nguyện giao nộp lại cho Công an; nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận P không đưa Nguyễn Thị Thùy D, NVA và Nguyễn Long g vào diện xử lý là phù hợp với quy định của pháp luật.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 100/2019/HSST ngày 25/6/2019 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh tuyên xử:

Tuyên bố: các bị cáo Nguyễn Phước a, Trương Hoài b, Dương Nhật c, Phạm Hoàng d, Nguyễn Tuấn Đ, Trần Phi e và Nguyễn Hoàng f phạm tội “Cướp tài sản”; bị cáo Nguyễn Long g phạm tội “Cướp giật tài sản”; bị cáo Võ Trường h phạm các tội “Cướp tài sản” và “Cướp giật tài sản”.

- Áp dụng điểm d, g khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Tuấn Đ 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/08/2018.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử phạt tù đối với các bị cáo khác trong vụ án (không có kháng cáo và không bị kháng nghị), về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 24/7/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 41/QĐ-VKS-P7 đối với bản án hình sự sơ thẩm số 100/2019/HSST của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị cấp phúc thẩm xét xử theo hướng sửa bản án sơ thẩm tăng hình phạt tù đối với bị cáo Nguyễn Tuấn Đ.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thực hành quyền công tố giữ nguyên Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với bản án hình sự sơ thẩm số 100/2019/HSST ngày 25/6/2019 của Tòa án nhân dân Quận 12.

Trong phần tranh luận, sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân bị cáo cũng như các tình tiết định khung, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã kết luận đủ căn cứ xác định bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Tuấn Đ phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định tại các điểm d, g Khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); cũng như xét xử các bị cáo khác trong vụ án (không có kháng cáo và không bị kháng nghị) về các tội “Cướp tài sản” và “Cướp giật tài sản”, là có cơ sở pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có quyết định kháng nghị trong thời gian luật định.

Về nội dung kháng nghị: Trong vụ án, bị cáo Nguyễn Tuấn Đ bị truy tố và xét xử theo quy định tại các điểm d, g Khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); còn bị cáo Nguyễn Hoàng f bị truy tố và xét xử theo quy định tại điểm g Khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xét về tính chất, mức độ phạm tội và số tiền hưởng lợi trong các vụ mà Nguyễn Tuấn Đ và Nguyễn Hoàng f tham gia với vai trò là như nhau. Nhưng án sơ thẩm xử phạt Nguyễn Tuấn Đ mức án 02 năm tù, còn Nguyễn Hoàng f bị xử phạt mức án 07 năm tù là thiếu công bằng, chưa thực hiện đúng theo quy định tại Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Tuấn Đ lên mức án từ 07 – 08 năm tù.

Bị cáo Nguyễn Tuấn Đ không tranh luận bổ sung, chỉ nói lời sau cùng xin được hưởng mức án khoan hồng để có cơ hội sớm chấp hành xong bản án, tiếp tục đi học và làm người có ích cho xã hội.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tuấn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cùng Nguyễn Phước a, Dương Nhật c, Trần Phi e, Phạm Hoàng d và Trương Hoài b như nội dung bản án sơ thẩm; phù hợp với bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố và các tài liệu, chứng cứ: biên bản tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm, biên bản tạm giữ đồ vật – tài liệu, lời khai của (bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án), bản kết luận giám định cùng các tài liệu, biên bản về hoạt động tố tụng khác của Cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Đã có đủ cơ sở để kết luận: Muốn có tiền tiêu xài nên vào khoảng 22h15’ ngày 27/6/2018, bị cáo Nguyễn Tuấn Đ cùng Nguyễn Phước a, Dương Nhật c, Trần Phi e, Phạm Hoàng d và Trương Hoài b đã rủ rê, cùng nhau lợi dụng đêm tối tại nơi vắng vẻ, dùng số đông để áp đảo và sử dụng 01 con dao bấm làm hung khí uy hiếp, tấn công làm tê liệt ý trí kháng cự của anh Dương Tấn B và chị Lê Thị Hồng C để chiếm đoạt tài sản gồm: 01 bóp tiền (trong bóp có 650.000 đồng) và 01 điện thoại Oppo F5 của anh B; 01 điện thoại di động Oppo A37 của chị C.

Sau đó, Nguyễn Phước a mang chiếc điện thoại Oppo F5 tiêu thụ được 1.200.000 đồng cùng số tiền 650.00 đồng chia cho Minh, Hào, Đ, Hoài b và Hoàng d, mỗi người 350.000 đồng, còn a giữ lại 100.000 đồng và chiếc điện thoại Oppo A37. Đến ngày 30/6/2018, a bán chiếc điện thoại Oppo A37 cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) với giá 400.000 đồng.

Theo bản kết luận định giá tài sản số 452/KLĐG ngày 03/10/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Quận 12, kết luận: Không đủ cơ sở để tiến hành định giá 01 điện thoại di động hiệu Oppo F5 và 01 điện thoại di động hiệu Oppo A37.

Trong vụ án, chỉ trong khoảng thời gian ngắn từ ngày 27/6/2018 đến ngày 10/8/2018, Nguyễn Phước a và Võ Trường h với vai trò chủ mưu, cầm đầu đã tủ tập, rủ rê đồng phạm liên tục gây ra các vụ “Cướp tài sản” và “Cướp giật tài sản” trên địa bàn Quận P với phương thức, thủ đoạn chọn nơi vắng vẻ, ít người qua lại vào buổi đêm để phạm tội; gây hoang mang trong quần chúng nhân dân tại địa phương; và trong vụ bị cáo Nguyễn Tuấn Đ tham gia cùng đồng phạm khi phạm tội, Nguyễn Minh a đã sử dụng 01 con dao bấm là hung khí để uy hiếp tấn công đe dọa đến sự an toàn về sức khỏe và tính mạng của bị hại; nên thuộc trường hợp “sử dụng phương tiện nguy hiểm” và “gây anh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội”; đây là những tình tiết định khung hình phạt.

Do đó, với trị giá tài sản chiếm đoạt và hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Tuấn Đ cùng đồng phạm, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố và xét xử đối với bị cáo Nguyễn Tuấn Đ cùng Nguyễn Phước a, Dương Nhật c, Trần Phi e, Phạm Hoàng d và Trương Hoài b về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại các điểm d, g khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 24/7/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 41/QĐ- VKS-P7 đối với bản án hình sự sơ thẩm số 100/2019/HSST ngày 25/6/2019 của Tòa án nhân dân Quận 12, là còn trong thời hạn luật định và hợp pháp nên được chấp nhận.

Về nội dung kháng nghị: Xét, trong vụ bị cáo Nguyễn Tuấn Đ cùng Nguyễn Phước a, Dương Nhật c, Trần Phi e, Phạm Hoàng d và Trương Hoài b phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm, có sự phân công nhưng mang tính giản đơn không có tổ chức. Trong đó, Nguyễn Phước a giữ vai trò chính là người cầm đầu rủ rê để phân công, trực tiếp sử dụng hung khí uy hiếp tấn công, chiếm giữ tài sản cũng như tiêu thụ tài sản để chia cho đồng phạm khác và hưởng lợi nhiều hơn; còn bị cáo Nguyễn Tuấn Đ với vai trò giúp sức đứng ngoài trông xe, làm nhiệm vụ cảnh giới.

Khi quyết định hình phạt: Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định về các tình tiết: tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại về tài sản cho bị hại và bị hại bãi nại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt đáng ra phải chịu theo quy định tại các điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Ngoài ra, án sơ thẩm còn nhận định về tính chất, mức độ tham gia phạm tội của bị cáo đồng phạm, bị cáo Đ phạm tội thuộc trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ và khi phạm tội đang là sinh viên, hiện được nhà trường cho phép bảo lưu kết quả học tập; để áp dụng quy định tại Khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên về mức hình phạt, xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn Đ mức án 02 (hai) năm tù, dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhẹ nhất của Điều luật bị áp dụng là có phần nhẹ, chưa đủ tác dụng để răn đe, giáo dục bị cáo Nguyễn Tuấn Đ trở thành người có ích cho xã hội. Do đó, Quyết định kháng nghị số 41/QĐ-VKS-P7 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị theo hướng sửa bản án sơ thẩm tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Tuấn Đ là có cơ sở pháp luật nên chấp nhận.

Xét tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân bị cáo của bị cáo Nguyễn Tuấn Đ phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể nên xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt bị áp dụng tại khung hình phạt liền kề đã đủ tác dụng để răn đe giáo dục bị cáo nói riêng và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm chung.

Trong vụ án, đối với Nguyễn Hoàng d: ngoài vụ bị xét xử và tuyên phạt tham gia đồng phạm với vai trò là người giúp sức, vào đầu tháng 8/2018, Võ Trường h, Nguyễn Hoàng f và Trần Phi e còn thực hiện 01 vụ “Cướp tài sản” là 01 chiếc xe máy hiệu Honda Wave S màu đỏ, biển số 93H1-099.xx tại trước nhà số B3/1 Ấp 2, xã VL, huyện BC. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận P đã gửi thông báo chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh điều tra xử lý theo thẩm quyền. Do đó, Nguyễn Hoàng f không đủ điều kiện để hưởng sự khoan hồng của pháp luật khi quyết định hình phạt đối với những người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể theo quy định tại Khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). Sau khi xét xử sơ thẩm, Nguyễn Hoàng f không có kháng cáo và kháng nghị giảm nhẹ hình phạt nên không xét.

Các vấn đề khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 41/QĐ-VKS-P7 ngày 24/7/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và sửa bản án sơ thẩm.

+Căn cứ vào các điểm d, g Khoản 2 Điều 168; các điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Khoản 2 Điều 54 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Tuấn Đ 03 (ba) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 27/08/2018.

+Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Tuấn Đ không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 399/2019/HS-PT ngày 11/09/2019 về tội cướp tài sản

Số hiệu:399/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về