Bản án 397/2019/HNGĐ-PT ngày 09/05/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 397/2019/HNGĐ-PT NGÀY 09/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 09 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 07/2019/TLPT-HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp ly hôn.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2018/HNGĐ-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân Quận 2 bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1462/2019/QĐ-PT ngày 18 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà A; cư trú tại: Số M, đường N, phường P, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

2. Bị đơn: Ông K; cư trú tại: Số M, đường N, phường P, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

3. Người kháng cáo: Bị đơn – ông K.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn xin ly hôn đề ngày 24/7/2017 và lời khai của nguyên đơn – bà A thì:

Bà và ông K đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Đ, tỉnh B, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 50, quyển số 01/2001, ngày 28/12/2001. Bà và ông K chung sống hạnh phúc cho đến năm 2009 thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm về cách sống, ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với gia đình, đối với các con chung. Do tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên Bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho Bà được ly hôn với ông K.

Về con chung: Bà và ông K có hai con chung là trẻ H, sinh ngày 16/9/2002 và trẻ M, sinh ngày 06/01/2009. Bà yêu cầu trực tiếp nuôi hai con chung và không yêu ông K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà và ông K tự thỏa thuận nên Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo lời khai của bị đơn – ông K thì: Ông thống nhất với trình bày của bà A về việc đăng ký kết hôn, con chung, tài sản chung và nợ chung. Ông nhận thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, giữa Ông và bà A chỉ phát sinh một số mâu thuẫn nhỏ nhặt trong quá trình xây nhà. Ông vẫn còn yêu thương bà A, nên Ông không đồng ý ly hôn với bà A. Nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà A, Ông đồng ý giao hai con chung là trẻ H, sinh ngày 16/9/2002 và trẻ M, sinh ngày 06/01/2009 cho bà A trực tiếp nuôi, Ông tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.250.000 đ (một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) đối với mỗi trẻ cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật. Các bên tự giao nhận vào ngày 10 dương lịch hàng tháng.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2018/HNGĐ-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân Quận 2 quyết định: “Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà A:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà A ly hôn với ông K.

2. Về việc nuôi con, cấp dưỡng nuôi con:

Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự: Giao hai con chung tên là H sinh ngày: 16/9/2002 và M sinh ngày: 06/01/2009 cho bà A nuôi dưỡng, chăm sóc, ông K tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.250.000 (một triệu hai trăm năm mươi nghìn) đồng đối với mỗi trẻ cho đến khi các con lần lượt đủ 18 tuổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật, các bên tự giao nhận vào ngày 10 dương lịch hàng tháng, bắt đầu thi hành ngay khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con; có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các quyền theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhận, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông K và bà A cùng xác định tự thỏa thuận về tài sản chung và nợ chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Kể từ ngày bà A có đơn yêu cầu thi hành án, trường hợp ông K không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ khoản tiền cấp dưỡng nêu trên thì hàng tháng ông K còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.” Ngoài ra, Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền yêu cầu thi hành án và kháng cáo của các đương sự.

Ngày 10/12/2018, bị đơn – ông K kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo: Ông còn yêu thương vợ, Ông không muốn con Ông sống thiếu cha mẹ. Ông không chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà A.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn – ông K trình bày: Ông không đồng ý ly hôn do còn thương bà A, Ông cần có thêm thời gian để vợ chồng tiếp tục khắc khục mâu thuẫn, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục các con. Đề nghị Tòa án tạo điều kiện để vợ chồng hàn gắn, xây dựng gia đình hạnh phúc.

Nguyên đơn – bà A trình bày: Đề nghị Tòa án giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Kiểm sát viên phát biểu:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về thời hạn kháng cáo: Đơn kháng cáo của ông K còn trong thời hạn pháp luật quy định.

Về nội dung: Trong thời kỳ hôn nhân, giữa bà A và ông K đã phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, làm cho đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông K, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 50, quyển số 01/2001, ngày 28/12/2001 do Ủy ban nhân dân xã L, huyện Đ, tỉnh B cấp thì quan hệ hôn nhân giữa ông K và bà A là hợp pháp. Trong thời kỳ hôn nhân, giữa ông K và bà A có phát sinh mâu thuẫn, chủ yếu là những mâu thuẫn trong việc giải quyết kinh tế của gia đình, thiếu sự chia sẻ, cảm thông lẫn nhau trong cuộc sống. Tuy nhiên, ông K và bà A sống chung với nhau trong một thời gian dài, cùng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục các con đang ở độ tuổi trưởng thành, tính chất mâu thuẫn không thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, làm cho đời sống của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được theo quy định tại Khoản 1, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nên cần tạo điều kiện cho hai bên có thêm thời gian để tiếp tục giải quyết mâu thuẫn, khắc phục tình trạng hôn nhân, cùng nhau nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục các con, xây dựng gia đình hạnh phúc.

[2] Do đó, chấp nhận kháng cáo của ông K, sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà A.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Khoản 5, Khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, thì nguyên đơn – bà A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ vào Khoản 2, Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Khoản 2, Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm nên người kháng cáo – ông K không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 147; Khoản 2, Điều 148 và Khoản 2, Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 19 và Khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Khoản 5 Điều 27 và Khoản 2, Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Sửa Bản án sơ thẩm:

1.1. Về hôn nhân: Không chấp nhận đơn khởi kiện của bà A, yêu cầu ly hôn ông K.

1.2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AE/2014/0008446 ngày 05/10/2017 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà A đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông K không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại cho ông K số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp là 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0015835 ngày 10/12/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.

Thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 397/2019/HNGĐ-PT ngày 09/05/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:397/2019/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về