Bản án 397/2018/HS-PT ngày 30/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 397/2018/HS-PT NGÀY 30/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 373/2018/HSPT ngày 09/11/2018 đối với bị cáo Lê Thanh S về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Do có kháng cáo của bị cáo Lê Thanh S đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 240/2018/HSST ngày 26/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo kháng cáo:

Họ và tên: Lê Thanh S - Sinh ngày 13 tháng 4 năm 1995, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi đăng ký HKTT và cư trú hiện nay: đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;

Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Thanh C và bà: Trần Thị Ngọc D; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: Có 1 tiền án, tại bản án số 151/2017/HSPT ngày 25/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm đã xử phạt Lê Thanh S 01 năm 03 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Ngày 02/02/2018, chấp hành xong hình phạt tù; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 05/02/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 02 năm 06 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số 46/2013/HSST.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 10/6/2018 – Có mặt.

Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Phạm Văn T nhưng không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thanh S và Phạm Văn T là các đối tượng nghiện chất ma tuý. Do không có tiền tiêu xài nên cả hai đã rủ nhau đi trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 20/5/2018, Phạm Văn T điều khiển xe mô tô biển số: 47N8-1314, chở Lê Thanh S đi đến dãy trọ tại địa chỉ: phường T, thành phố B. Tại đây, T đứng ngoài cảnh giới còn S đi vào phòng trọ số 4 của chị Nguyễn Thị T, cửa đang khép hờ, quan sát thấy trong phòng có chị T và chị Nguyễn Thị T1 đang nằm ngủ. S đi vào phòng lén lút trộm cắp chiếc điện thoại OPPO F3 bỏ vào túi quần. Sau đó, S tiếp tục lục bên trong túi xách màu nâu đất treo trên tường, trộm cắp số tiền 23.950.000 đồng của chị T. Sau khi trộm cắp được tài sản, S bỏ đi ra ngoài rồi cùng T tẩu thoát. Trên đường đi S nói với T trộm cắp được 01 điện thoại di động hiệu OPPO F3 và tháo bỏ sim điện thoại vứt trên đường rồi T tiếp tục điều khiển xe mô tô chở S đi đến tiệm dịch vụ cầm đồ Nguyễn P, địa chỉ: phường T, thành phố B, bán chiếc điện thoại vừa trộm cắp được cho anh Nguyễn Văn K (chủ tiệm) với số tiền 1.500.000 đồng. Số tiền có được T và S mua ma tuý và tiêu xài cá nhân hết. Toàn bộ số tiền 23.950.000 đồng S cất giữ riêng và tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 123/KLĐG ngày 20/6/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F3, thân máy màu hồng, có vỏ bọc hồng, bộ nhớ trong 8Gb, dung lượng 64Gb, trị giá: 2.900.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 06 giờ ngày 10/6/2018 Lê Thanh S một mình đi bộ đến trước dãy phòng trọ tại địa chỉ: phường N, thành phố B, S nảy sinh ý định vào bên trong dãy trọ để trộm cắp tài sản. S đi đến phòng trọ số 7 của chị Nguyễn Thị Q rồi kéo chốt cửa thì thấy cửa mở được nên S đi vào phòng. Quan sát thấy chị Q đang ngủ trên giường, S lén lút lục tìm tài sản trộm cắp được 01 bóp trong bóp có số tiền 1.900.000 đồng và 01 tờ 2 USD cùng một số giấy tờ tùy thân của chị Q. Chị Q phát hiện chạy đuổi theo S thì S bỏ chạy và lấy số tiền 1.900.000 đồng bỏ vào túi đồng thời vứt lại chiếc bóp, bên trong có giấy tờ tùy thân của chị Q. Số tiền trộm cắp được S mua ma tuý và tiêu xài hết.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 159/KLĐG ngày 24/7/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận:

- 01 tờ 2USD, số Seri L29731204A, trị giá: 45.410 đồng;

- 01 bóp (ví) màu rêu không nhãn hiệu, trị giá: 10.000 đồng. Trị giá tài sản: 55.410 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 240/2018/HSST ngày 26/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thanh S phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Lê Thanh S 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 10/6/2018.

Ngoài ra, bản án còn quyết định hình phạt đối với bị cáo Phạm Văn T, quyết định về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 03/10/2018 bị cáo Lê Thanh S kháng cáo bản án xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đã thừa nhận Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng chỉ xin HĐXX phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Thanh S về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Do vậy, đề nghị HĐXX căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để khẳng định: vì mục đích tư lợi cá nhân, vào ngày 20/5/2018 và ngày 10/6/2018 bị cáo Lê Thanh S đã lén lút vào phòng trọ của chị Nguyễn Thị T ở địa chỉ: phường T, thành phố B và phòng trọ của chị Nguyễn Thị Q ở địa chỉ: phường T, thành phố B để trộm cắp tài sản. Tổng giá trị tài sản được xác định là 28.805.410đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Thanh S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy: Mức hình phạt 02 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Lê Thanh S là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Quá trình xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 BLHS cũng như xem xét đến nhân thân của bị cáo, đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cũng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Vì vậy HĐXX phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

[3] Về án phí: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Lê Thanh S phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

[1] Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thanh S - Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 240/2018/HS-ST ngày 26/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt đối với bị cáo Lê Thanh S.

[2] Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Lê Thanh S 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 10/6/2018.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Thanh S phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

907
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 397/2018/HS-PT ngày 30/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:397/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về