Bản án 394/2019/HS-PT ngày 12/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 394/2019/HS-PT NGÀY 12/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự Thụ lý số 171/2018/TLHS-PT ngày 05/3/2018 đối với bị cáo Lại Đức H bị xét xử sơ thẩm về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2018/HSST ngày 22/01/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn.

* Bị cáo có kháng cáo: Lại Đức H (tên gọi khác: Không), sinh năm 1978; ĐKNKTT tại Tổ 4, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lại Đức M và bà Nguyễn Thị Th; có vợ là Nguyễn Thị Y; có 02 con (con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2016); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/11/2016 đến nay; có mặt.

Nhân thân: Bản án số 123/HS-ST ngày 24/9/1999 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xử phạt 18 năm tù về tội Hiếp dâm trẻ em (bl 209,210).

* Người bào chữa cho bị cáo:

1. Luật sư Phan Đức H - Văn phòng Luật sư T, Đoàn Luật sư tỉnh Thái Nguyên; có mặt.

2. Luật sư Hoàng Minh H - Văn phòng Luật sư H, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

Trong vụ án này, bị cáo Hoàng Văn Th không kháng cáo và một số người làm chứng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nội dung tài liệu có trong hồ sơ và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn được tóm tắt như sau:

Hồi 13giờ 00 phút, ngày 12/11/2016 tại khu vực nhà xưởng của Hoàng Văn Th thuộc Tổ 1, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, Công an phát hiện lập biên bản đối với Lại Đức H và Hoàng Văn Th về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ: 02 cục chất bột màu trắng không rõ hình dạng, kích thước được gói trong hai lớp túi nilon màu trắng để trong vỏ bao thuốc lá in số “555” (ký hiệu A1); 01 cục chất bột màu trắng không rõ hình dạng, kích thước được gói trong hai lớp túi nilon màu trắng để trong vỏ bao thuốc màu vàng có dòng chữ “GOLD LION” (ký hiệu A2); 03 cục chất bột màu trắng không rõ hình dạng, kích thước, mỗi cục được gói trong hai lóp túi nilon màu trắng và cuốn bằng dây cao su màu vàng để trong hộp giấy có dòng chữ “Nexium mups 40mg” (ký hiệu A3). Ngoài ra, tạm giữ của Th 01 chiếc điện thoại di động ASUS đã qua sử dụng có lắp 02 sim có số thuê bao 0961545973 và 0976380385; 9.000.000đ. Tạm giữ của Lại Đức H 01chiếc điện thoại di động IPHONE 5S, đã qua sử dụng, có lắp 01 sim có số thuê bao 096.3810.028; 01 chiếc điện thoại di động Samsung màu đen đã qua sử có lắp 01 sim số thuê bao 01676.872.155 và 1.850.000đ; 01 CMND số 090854499 mang tên Lại Đức H. (bl 46-51). Biên bản kiểm tra điện thoại xác định H dùng số 0963810028 gọi vào số 0961545973 của Th 02 cuộc ngày 05-11-2016, 01 cuộc ngày 10-11-2016; (bl 75; 78;159). Biên bản mở, đóng niêm phong và cân (bl 66) xác định: Tổng trọng lượng 06 (sáu) gói chất bột màu trắng là 156,94g, cụ thể: Chất bột màu trắng ký hiệu A1 có trọng lượng 7.2g (trích 0,02g giám định ký hiệu B1); chất bột màu trắng ký hiệu A2 có trọng lượng 37,39g (trích 0,04g giám định ký hiệu B2); chất bột màu trắng ký hiệu A3 có trọng lượng là 112,35g (trích 0,02g giám định ký hiệu B3). Kết luận giám định số 155/KTHS-MT ngày 15/11/2016 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Kạn (bl 85) xác định: Mẫu chất bột màu trắng trong các phong bì ký hiệu B1, B2, B3 đều là chất ma túy, loại heroine.

Quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận:

- Từ ngày 12/11/2016 đến ngày 07/02/2017, Lại Đức H khai quen biết Th do trước đây cùng chấp hành án tại Trại giam Phú Sơn 4. Khoảng 7h30’ ngày 12/11/2016, Hoàng Văn Th gọi điện cho H hỏi mua 04 “cây” heroine và nhờ H mua hộ 02 hộp tôm, 02 hộp cá đông lạnh. Sau đó H gọi điện cho M (M Tiếp) nhà ở khu cầu Gia Bảy, thành phố T hỏi mua 04 “cây” heroine. M đồng ý bán 28.000.000đ/“cây” và hẹn H địa điểm giao dịch ở khu vực Kho bạc mới thành phố T. Khoảng 15 phút sau, H đi bộ ra điểm hẹn gặp M đi xe máy đến (xe dạng thể thao màu đỏ, không rõ biển kiểm soát), M ngồi trên xe máy và đưa cho H 04 “cây” heroine để trong một vỏ bao thuốc lá màu vàng và một hộp màu trắng, H đã mở bao thuốc lá màu vàng kiểm tra thấy bên trong thấy có một túi nilon màu trong suốt có chứa chất màu trắng dạng cục, thấy đúng là heroine nên H đã cất toàn bộ vào trong túi áo khoác H đang mặc trên người. H nói với M là em chưa có tiền trả, M lúc đầu không hài lòng, nhưng sau đó đã đồng ý. Sau đó, H đi bộ ra siêu thị ở Minh Cầu mua 02 hộp tôm, 02 hộp cá đông lạnh cho Th và điện thoại cho Nguyễn Chí Thủ lái xe ô tô dịch vụ, hẹn đón H tại nhà văn hóa tổ 4, phường P, thành phố T đi C chơi. Khoảng 13h00 cùng ngày đến khu vực nhà Th, H bảo Thủ dừng xe ở trước cổng, còn H xuống xe xách theo túi nilon tôm và cá đông lạnh đi qua cổng không có khóa vào sân gặp Th. Khi đi đến sân trước cửa chính vào nhà, H đưa cho Th túi nilon có chứa tôm và cá đông lạnh rồi cùng đi về phía bếp. Tại đây, H lấy 04 “cây” heroine từ trong túi áo khoác đưa cho Th. Sau đó, H đi ra khu vực bàn uống nước ở sân trước nhà Th lấy ấm siêu tốc cắm điện đun nước uống và đang rửa ấm chén thì bắt. H quen M khi cùng chấp hành án tại Trại giam Phú Sơn 4 nhận (bl 175-183). Từ ngày 08/02/2017, Lại Đức H phản cung không thừa nhận bán ma túy cho Th như đã khai nhận trước đây.

- Hoàng Văn Th khai nhận: Th và H có một số lần mua bán ma túy với nhau. Sáng ngày 12/11/2016 có dùng điện thoại di động số 097.6380.385 gọi điện cho H (Th không nhớ số nhưng có lưu trong máy điện thoại của Th là “Hung TV”) đặt mua 04 “cây” heroine giá 30.000.000đ/“cây” và một ít ma túy đá thì H trả lời để em hỏi xem đã. Sau đó, H gọi điện lại bảo không có ma túy đá, chỉ có 04 “cây” heroine và hẹn sẽ đem lên nhà Th, khi đó Th có nhờ H tiện mua giúp hai hộp cá và hai hộp tôm đông lạnh. Khoảng 13h00’cùng ngày, khi Th đang làm việc bên nhà xưởng của gia đình thì thấy có 01 chiếc xe ô tô màu đỏ đô ở trước cửa nhà và thấy H từ trong xe ô tô bước xuống, nên Th từ xưởng đi sang nhà gặp H ở sân. Th đi trước H, H đi sau sát với Th và trên tay H xách túi nilon cá, tôm đưa cho Th sân trước cửa chính vào nhà. Th cầm mang vào bếp cất vào tủ lạnh, sau đó quay ra trước cửa khu bếp thì gặp H và H lấy từ trong túi áo ngực đang mặc trên người đưa cho Th 04 “cây” heroine (01 “cây” trong vỏ bao thuốc lá màu vàng và 03 “cây” để trong một hộp màu trắng có chữ). Th chưa trả tiền cho H vì Th chờ bán số ma túy này cho người khác thì mới có tiền trả cho H. Th cầm ma túy của H bán đi sang xưởng cất vào hộp đựng bánh kẹo hình tròn trong có 02 “chỉ” heroine đã mua trước đó ở bến xe Bắc Kạn. Khi Th đang thử kiểm tra chất lượng ma túy vừa mua của H thì bị bắt (bl 219- 253).

Ngày 19/7/2017, CQĐT đã tiến hành cho đối chất và cho Hoàng Văn Th thực nghiệm điều tra diễn ra lại hành vi mua heroin với H (bl 275-298).

Cáo trạng số 16/ KSĐT-MT ngày 07 tháng 11 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn truy tố Lại Đức H và Hoàng Văn Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2018/HSST ngày 22/01/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Lại Đức H và Hoàng Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 194; khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Lại Đức H 20 (Hai mươi) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt, tạm giam 12/11/2016. Phạt tiền bị cáo Lại Đức H 10.000.000 đồng sung công quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định hình phạt 20 năm tù và hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hoàng Văn Th; việc xử lý vật chứng; án phí và tuyên quyền kháng cáo, kháng nghị theo luật định.

Ngày 26/01/2018, bị cáo Lại Đức H kháng cáo kêu oan (bl 436).

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo Lại Đức H công nhận các hành vi khách quan như có liên lạc với Th; đi mua tôm và cá đông lạnh ở siêu thị Minh Cầu; có quen biết M; có gọi điện cho Thủ đón tại Nhà văn hóa P để chở H lên nhà Th và có mặt khi bị công an kiểm tra. H không công nhận mang ma túy bán cho Th và những chữ ký trong các biên bản ghi lời khai ban đầu là do bị cáo ký khống vào giấy trắng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo H đã được Hội đồng xét xử cho xem và công nhận chữ ký, chữ viết tại các Biên bản phạm pháp quả tang, Biên bản ghi lời khai là của chính mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích đánh giá chứng cứ xác định hành vi của bị cáo Lại Đức H đã bán trái phép 149,74 gam heroin cho Th, do vậy không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo và đề nghị giữ nguyên Bản án sơ thẩm đối với bị cáo H.

Những người bào chữa cho bị cáo H trình bày việc bắt H trong trường hợp quả tang khi đang ngồi tại nhà Th trong khi phát hiện và thu giữ ma túy tại xưởng của Th là không chính xác. Cần thiết có mặt Th và Thủ để đối chất với H tại phiên tòa, đề nghị hủy Bản án sơ thẩm để điều tra lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở tài liệu đã được thẩm tra, lời khai của các bị cáo, ý kiến của người bào chữa, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm có nhận định như sau:

Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo Lại Đức H nằm trong hạn luật định nên được coi là hợp lệ. Đối với yêu cầu triệu tập bị án Hoàng Văn Th là không cần thiết vì Th đã có đầy đủ lời khai, đã thực nghiệm điều tra, đã được Cơ quan điều tra cho đối chất với bị cáo Lại Đức H. Đặc biệt, tại phiên tòa sơ thẩm, Th đã khai rõ về việc mua ma túy của H. Đối với lời khai của bị cáo H cho rằng bị ép cung và bị ép ký khống vào các Biên bản ghi lời khai là không có căn cứ vì: Trên các trang tài liệu (bl 175-183), H đều xác nhận ký và ghi tên mình phần cuối mỗi một đoạn nội dung, do vậy H không thể nào biết trước đoạn ghi nội dung này có khoảng cách là bao nhiêu? để H có thể biết và ký lưu không vào vị trí đó được.

Về nội dung: Liên quan đến kháng cáo của bị cáo Lại Đức H kêu oan, không thừa nhận thực hiện hành vi ngày 12/11/2016 bán ma túy cho Hoàng Văn Th, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ đi sâu phân tích làm rõ về hành vi khách quan, ý thức chủ quan của bị cáo và những người khác có liên quan, từ đó xác định xem bị cáo có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không?. Cụ thể:

[1] Về hành vi khách quan: Kết quả xác minh list điện thoại xác định có một số lần H và Th điện thoại liên lạc với nhau trước khi bị bắt ngày 12/11/2016. Có việc H thuê Thủ dùng xe ô tô đón H từ nhà văn hóa tổ 4, phường P, thành phố T đi đến nhà Th. Có việc H mua cá và tôm đông lạnh tại siêu thị ở Minh Cầu đem lên giao cho Th. Có việc Công an phát hiện Th đang thử heroin tại xưởng và thu giữ vật chứng gồm tổng trọng lượng 156,94g heroin. Ngay khi bị Công an phát hiện, Th đã khai rõ trong Biên bản bắt người phạm tội quả tang (bl 49) là: Số heroin trên tôi mua của Lại Đức H là phù hợp với diễn biến và lời khai của H. Kết quả xác minh xác định có đối tượng là Ngô Thế M (con ông Ngô Thế T) ĐKNKTT tại Phường Hoàng Văn Th, thành phố T. Như vậy, lời khai ban đầu của H xác định mua 04 “cây” heroin của M (M Tiếp) bán giá 28.000.000đ/ “cây” và địa điểm giao ma túy tại khu vực Kho bạc Nhà nước thành phố T là khách quan và có cơ sở, vì ngoài H ra không một ai có thể biết và bắt H phải khai ra người bán ma túy cho mình là M (M Tiếp) với giá 28.000.000đ/“cây” và hẹn địa điểm giao nhận ma túy tại khu vực Kho bạc Nhà nước thành phố T. Mặt khác, lời khai của H còn phù hợp với lời khai của Thủ về lộ trình đón đưa H đi đến nhà Th, cũng như lời khai của Th về diễn biến của việc mua bán ma túy với H.

[2] Về ý thức chủ quan: Có căn cứ xác định giữa Th với H có mối quan hệ với nhau từ trước và giữa hai người không có mâu thuẫn gì với nhau, nên không thể có chuyện Th đổ vạ sang cho H là người bán ma túy cho Th. Qua nội dung lời khai thể hiện H không có kế hoạch đến nhà Th từ trước, chỉ sau khi Th điện thoại đặt mua ma túy thì H mới nảy sinh ý định đặt M mua ma túy và nói Thủ chở mình đem ma túy đến nhà Th là phù hợp với diễn biến và hành vi khách quan Th là người gọi điện thoại trước cho H.

Với phân tích trên đây, có căn cứ xác định ngày 12/11/2016 tại khu vực nhà xưởng của Hoàng Văn Th (Tổ 1 thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn), Lại Đức H là người đã bán 149,74gam heroin cho Hoàng Văn Th bị Công an phát hiện bắt giữ người cùng vật chứng. Hành vi của các bị cáo Lại Đức H và Hoàng Văn Th đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, như Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan.

[3] Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt, về nhân thân của các bị cáo nên xử phạt Lại Đức H 20 năm tù là tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, không có thêm tình tiết nào mới làm căn cứ để tăng hay giảm hình phạt đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lại Đức H; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2018/HSST ngày 22/01/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn đối với bị cáo Lại Đức H.

Áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 194; khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Lại Đức H 20 (Hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 12/11/2016. Phạt tiền bị cáo Lại Đức H 10.000.000 (Mười triệu) đồng sung Ngân sách của Nhà nước.

Bị cáo Lại Đức H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 394/2019/HS-PT ngày 12/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:394/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về