Bản án 39/2020/HS-ST ngày 28/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 39/2020/HS-ST NGÀY 28/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 25/2020/TLST- HS ngày 21 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Tiến D, sinh năm 1993 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: tổ H T, phường Tr, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Minh S và bà: Trần Thị Q; có vợ và 01 con; tiền án: ngày 06-8-2015 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ ngày 03-12-2019, chuyển tạm giam ngày 06- 12-2019 ; có mặt.

- Bị hại: Ông Bùi Tiến D; sinh năm 1969; nơi cư trú: số M đường Tr, phường V, thành phố N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phan Thị H, sinh năm 1975, nơi cư trú: số B, phường H, thành phố N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ ngày 24-10-2019, Phạm Tiến D điều khiển xe máy Giorno, không biển kiểm soát đến nhà ông Nguyễn Minh C, sinh năm 1970, trú tại phường Tr, thành phố N chơi. Tại đây, Du thấy ông Bùi Tiến D đã ngồi chơi với ông Cu từ trước nên vào nhà ngồi nói chuyện cùng. Cả ba thống nhất mua đồ ăn về nhà ông Cu để ăn uống. Sau đó vì có việc nên ông Cu điều khiển xe máy biển kiểm soát 35B2 - 269.26 đi ra ngoài còn ông Du mượn xe máy Giorno của Du để đi mua đồ ăn. Khoảng 15 phút sau, do không tìm được quán bán đồ ăn nên ông Du quay về, đưa cho Du 200.000 đồng và bảo Du đi mua. Du đồng ý rồi điều khiển xe máy của mình đi. Ông Du quay vào sân nhà ông Cu và để chiếc kính mắt nam giới của mình (loại kính có gọng bằng kim loại màu vàng trên khắc chữ “ALGHA (20) EXCL JOINTS” và “MADE IN ENGLAND”, hai mắt kính màu nâu) lên yên chiếc xe máy biển kiểm soát 18Z2 - 9797 của ông Cu đang dựng sát bờ tường bên phải sân hướng từ cổng nhìn vào rồi vào nhà ngồi đợi. Khoảng một tiếng sau, ông Cu về rồi ngồi nói chuyện, uống rượu với ông Du. Du mua đồ ăn về thấy ông Cu và ông Du đang uống rượu nên vào ngồi cùng. Khi cả ba đang ngồi ăn uống được một lúc thì có anh Trần Anh T (tức Tu) trú tại phường Năng Tĩnh, thành phố Nam Định đến chơi. Được khoảng 15 phút thì anh Tu ra về, Du đứng dậy ra mở cổng cho anh Tu thì phát hiện chiếc kính mắt của ông Du để trên yên xe máy biển kiểm soát 18Z2 - 9797 nên nảy sinh ý định trộm cắp. Du quan sát xung quanh, thấy không ai để ý đến mình nên dùng tay trái cầm lấy chiếc kính trên định mang đi cất giấu. Đúng lúc này, anh Tu quay lại, hỏi Du vừa cầm cái gì thì Du để chiếc kính lại vị trí cũ và nói không cầm gì. Sau khi anh Tu ra về, Du khóa cổng rồi quay lại chỗ để chiếc kính mắt. Du tiếp tục quan sát, thấy có không có người để ý đến mình nên đã dùng tay phải cầm chiếc kính mắt đem cất giấu vào ngăn trên cùng bên phải của chiếc tủ giày đang kê ở sân, sát bánh trước của xe máy biển kiểm soát 18Z2 - 9797 để khi ra về sẽ lấy rồi vào nhà ngồi uống rượu tiếp với ông Du và ông Cu.

Đến khoảng 02 giờ ngày 25-10-2019, Du đứng dậy xin phép về trước rồi ra chỗ tủ giày, dùng tay trái lấy chiếc kính mắt đã cất giấu từ trước mang về nhà trọ của mình tại tổ 29 Thành Nam, phường Trần Tế Xương, thành phố Nam Định. Một lát sau ông Du đứng dậy, tìm chiếc kính mắt để đi về thì không thấy đâu. Ông Cu nghi ngờ Du đã lấy chiếc kính mắt của ông Du nên đã đến phòng trọ của Du để nói chuyện nhưng Du nói dối không lấy chiếc kính mắt nên ông Cu ra về. Khoảng 15 giờ cùng ngày, chủ nhà trọ của Du là bà Phan Thị H đến nhà trọ của Du để thu tiền. Tại đây, bà Hồng nhìn thấy chiếc kính mắt mà Du đã trộm cắp được để trên mặt bàn uống nước nên hỏi mua. Du nói chiếc kính mắt là của mình và đồng ý bán cho bà Hồng với giá 2.000.000 đồng. Do Du còn đang nợ chị H tiền thuê nhà của 04 tháng là 2.000.000 đồng nên cả hai thỏa thuận số tiền mua bán chiếc kính mắt sẽ trừ vào tiền thuê nhà. Sau đó, chị H đem chiếc kính mắt trên về nhà để sử dụng.

Nhận được đơn trình báo của ông Bùi Tiến D, quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố Nam Định đã triệu tập Phạm Tiến D lên làm việc. Tại Cơ quan điều tra, Phạm Tiến D đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình như trên. Ngày 05-11-2019, Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định đã thu giữ 01 chiếc kính mắt của nam giới do bà Phan Thị H tự nguyện giao nộp.

Ngày 12-11-2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nam Định đã kết luận: chiếc kính mắt của nam giới là vật chứng trong vụ án có trị giá 4.500.000 (bốn triệu năm trăm nghìn) đồng. Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố Nam Định đã trả lại chiếc kính mắt trên cho ông Bùi Tiến D, sau khi nhận lại tài sản ông Du không có đề nghị gì khác. Bà Phan Thị H yêu cầu Du phải hoàn trả lại số tiền 2.000.000 đồng mà chị H đã trả cho Du.

Ngày 15-11-2019, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố Nam Định đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Phạm Tiến D. Do Du bỏ trốn sau khi Cơ quan điều tra tạm cho về nên Cơ quan điều tra đã ra Quyết định truy nã. Ngày 03-12-2019, Phạm Tiến D đã đến Công an thành phố Nam Định để đầu thú.

Bản Cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 20-01-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Phạm Tiến D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, bị cáo Phạm Tiến D khai nhận hành vi trộm cắp chiếc kính mắt của ông Bùi Tiến D như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Phan Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt và không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 2.000.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Tiến D theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”; xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Tiến D không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Vào khoảng 02 giờ ngày 25-10-2019, bị cáo Phạm Tiến D đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của ông Bùi Tiến D chiếc kính mắt có đặc điểm gọng bằng kim loại màu vàng, trên khắc chữ “ALGHA (20) EXCL JOINTS” và “MADE IN ENGLAND”, hai mắt kính màu nâu. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nam Định đã kết luận: chiếc kính mắt là vật chứng trong vụ án có trị giá 4.500.000 (bốn triệu năm trăm nghìn) đồng. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đã xâm phạm quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo hộ nhưng vẫn thực hiện, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định là có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo có 01 tiền án bị kết án chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại là ông Bùi Tiến D đã nhận lại tài sản và không đề nghị giải quyết vấn đề bồi thường, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Phan Thị H không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 2.000.000 đồng; do đó Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết vấn đề dân sự.

[6] Đối với hành vi vủa bà Phan Thị H khi mua chiếc kính mắt của Phạm Tiến D nhưng không biết đó là tài sản do Du trộm cắp mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định không đặt ra vấn đề xử lý là đúng quy định của pháp luật

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Tiến D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phạm Tiến D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 03-12-2019.

2. Án phí: Bị cáo Phạm Tiến D phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Tiến D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2020/HS-ST ngày 28/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:39/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về