Bản án 39/2020/HS-PT ngày 25/02/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 39/2020/HS-PT NGÀY 25/02/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Vào ngày 25 tháng 02 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 58/2019/TLPT-HS ngày 24 tháng 12 năm 2019 đối với các bị cáo Lê Văn Anh T, Nguyễn Trí T1, Nguyễn Văn T2, Trần Nhật Q. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2019/HS-ST ngày 20 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Lê Văn Anh T (Tên gọi khác: T), sinh ngày 11 tháng 02 năm 1991 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT: Tổ 19, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông Lê Văn T và bà Phan Thị P; Gia đình có 07 người con, bị cáo là con thứ bảy; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 29/5/2011 bị TAND quận H, thành phố Đà Nẵng xử phạt 15 tháng tù giam về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án số 33/HSST. Chấp hành xong ngày 10/5/2012.

- Ngày 05/02/2010 bị Công an phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng xử phạt hành chính theo Quyết định số 25/QĐ; mức phạt: 1.500.000đ về hành vi “Gây rối trật tự công cộng có mang theo vũ khí thô sơ”. Bị cáo bị bắt ngày 12/9/2018. Có mặt.

2. Nguyễn Trí T1 (Tên gọi khác: Đen), sinh ngày 20 tháng 7 năm 1995 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT: Tổ 37, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa Giáo; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Nguyễn Quốc B và bà Nguyễn Thị V; Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 15/01/2014 bị TAND quận L, thành phố Đà Nẵng xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án số 02/2014/HSST. Chấp hành xong ngày 10/5/2015.

Nhân thân: Ngày 19/10/2010 bị đưa vào Trường giáo dưỡng theo Quyết định số 2032 ngày 17/10/2010 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận L, thành phố Đà Nẵng (24 tháng).

Bị cáo bị bắt ngày 13/4/2019. Có mặt.

3. Nguyễn Văn T2, sinh ngày 16 tháng 7 năm 1991 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT: Tổ 20 (19B cũ), phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Nguyễn T và bà Trương Thị N; Gia đình có 02 người con, bị cáo là con thứ hai; Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 29/12/2014 bị TAND quận L, thành phố Đà Nẵng xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án số 87/2014/HSST. Chấp hành xong ngày 25/6/2017.

Bị cáo bị bắt ngày 24/4/2019. Có mặt.

4. Trần Nhật Q (Tên gọi khác: B), sinh ngày 25 tháng 9 năm 1989 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT: Tổ 20, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa Giáo; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông Trần Văn T và bà Đoàn Thị Lệ K; Gia đình, có 04 người con, bị cáo là con thứ tư; Vợ là Nguyễn Thị Thu H (sinh năm 1990) và có hai con (lớn sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2015); Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 03/8/2007 bị đưa vào Trường giáo dưỡng theo Quyết định số 07/QĐ-UB-NC ngày 02/8/2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận L, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo bị bắt ngày 24/4/2019. Có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo:

2.1.1. Bà Lê Thị Hồng T - Luật sư Văn phòng luật sư L bào chữa cho bị cáo Lê Văn Anh T. Có mặt.

2.1.2. Ông Ông Quốc C - Luật sư Văn phòng luật sư Đ bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trí T1. Có mặt.

2.1.3. Bà Nguyễn Thị H - Luật sư Công ty Luật T bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn T2. Có mặt.

2.1.4. Ông Lê Hữu P - Luật sư Công ty Luật TNHH MTV H và cộng sự bào chữa cho bị cáo Trần Nhật Q. Có mặt.

(Ngoài ra trong vụ án có 01 bị hại, 04 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, 08 người làm chứng không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mâu thuẫn với Phan Văn P (sinh năm 1999, trú tại: thành phố Đà Nẵng) từ trước và đã có lần bị P dùng dao đuổi đánh nên khoảng 22h30’ ngày 27/6/2018, khi Lê Văn Anh T phát hiện thấy Phan Văn P đi vào quán Karaoke T thì T nảy sinh ý định đánh P để trả thù. T đã chở T1 về khách sạn T tại địa chỉ: phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng (do bà Trần Thị H làm chủ); là nơi T lưu trú, T lấy 03 con dao, kiếm tự tạo (mà T cất giấu sẵn trong phòng từ trước) đem xuống, nhằm mục đích đi tìm P để đánh; còn T1 đứng đợi dưới sân trước khách sạn.

Trong khi T đang ở trên phòng 204 để lấy hung khí thì Nguyễn Văn T2 đi bộ đến gặp T1 dưới sân khách sạn T. Khi T vừa mang hung khí xuống thì T1 hỏi T: “Có chuyện chi đó?”. T trả lời: “Qua Karaoke T đánh thằng P”. T1 tự lấy một cây hung khí. T2 có khuyên T “thôi nhậu còn đi đâu nữa!” nhưng T không nghe. Lúc này, Trần Nhật Q điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Văn T3 đi ngang qua thấy T, T2 và T1 đang đứng trước khách sạn T thì Q bỏ T3 xuống và điều khiển xe mô tô đến gặp T hỏi chuyện thì T nói: “Có chuyện, đi đánh nhau”. Sau đó, T cầm 02 cây hung khí kẹp trước chỗ để chân của xe Air Blade 43D 1- 338.00 rồi lên xe chở T1 (cầm sẵn một cây hung khí trước đó). T2 thấy T và T1 đi thì nói Q lấy xe chở T2 đi theo T. Trên đường đi T lấy một cây hung khí đưa cho T2 cầm. Khi cả nhóm đến quán Karaoke T, T, T1 và T2 đều cầm dao, kiếm tự tạo chạy lên các tầng trên để tìm đánh P; riêng Q không có hung khí nên đã lấy ly nhựa tại quầy để ly của tầng 3 rồi đi theo T tìm P tại các phòng Karaoke trong quán T.

Khi đến khu vực tầng 5, T phát hiện P đang hát karaoke trong phòng 505 cùng một số bạn bè gồm: Dương Phúc T4 (sinh năm 1995, trú thành phố Đà Nẵng); Phạm Văn H (sinh năm 1988), Phạm Thành Đ (sinh năm 2002) cùng trú: thành phố Đà Nẵng); Tán Việt K (sinh năm 1996, trú thành phố Đà Nẵng). T rút kiếm ra khỏi vỏ và đẩy cửa xông vào phòng 505. T2, T1 và Q cũng mang theo kiếm, ly nhựa đi theo T vào trong phòng. Thấy nhóm T mang theo hung khí bước vào phòng thì Phạm Thành Đ đứng dậy định đi ra khỏi phòng nhưng bị nhóm của T dùng tay đấm vào mặt và yêu cầu Đ đi vào lại trong phòng. Dương Thúc T4 cũng bị nhóm của T dùng hung khí chỉ vào mặt và nói: “Tắt nhạc, mở điện lên!”. Sau đó, T bật điện trong phòng rồi xông đến dùng kiếm nhắm vào P chém một nhát xéo từ trên xuống, từ trái qua phải. P cầm tấm nệm đưa lên đỡ thì bị chém trúng vào tay trái. Khi P đứng dậy vùng bỏ chạy ra phía cửa phòng thì bị nhóm T cùng nhau chặn, đuổi T2 dùng kiếm chém 1 nhát vào lưng của P và Q dùng ly ném P. Lê Văn Anh T tiếp tục dùng kiếm chém thêm hai nhát vào lưng P làm cho P chạy ra đến gần cửa phòng thì ngã xuống bất tỉnh, cả ba nhát chém T đều cầm kiếm bằng tay phải. Sau khi thấy P nằm gục tại chỗ, Lê Văn Anh T nói với cả nhóm: “Thôi đi về! Hắn rớt rồi!”, cả nhóm T mang hung khí cùng đi cầu thang bộ xuống đến tầng trệt của quán thì gặp anh Nguyễn Văn N (sinh năm 1990, thành phố Đà Nẵng) - con trai chủ quán Karaoke T). Do có quen biết từ trước nên khi gặp T, N đã giật cây kiếm trên tay T, T2 cũng vứt lại hung khí. Riêng T1 nhanh chóng cầm theo hung khí lấy xe của T rời khỏi hiện trường. Sau đó, Q và T bỏ đi thì T2 vẫn còn ở lại hiện trường, Lê Công N1 (sinh năm 1990, trú tổ 10 H, quận L, thành phố Đà Nẵng) đang nhậu gần đó nên đến quán Karaoke để xem sự việc thì được T2 nhờ chở về, do có quen biết nên N1 đồng ý chở T2 rời khỏi quán Karaoke T.

*Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 208/TgT ngày 21/8/2018 của Trung tâm pháp y thành phố Đà Nẵng kết luận đối với Phan Thanh P:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vết thương vùng lưng (V2):

+ Thấu ngực phải: đứt xương sườn XI, XII, rách thùy dưới phổi phải, tràn máu màng phổi đã điều trị phẫu thuật cầm máu, lấy sạch máu trong khoang màng phổi đặt dẫn lưu. Hiện tại vết thương và vết dẫn lưu đã lành tạo sẹo, nạn nhân không ho, không khó thở; Xquang kiểm tra gãy xương sườn XI, XII bên phải đi lệch, không thấy tổn thương nhu mô phổi, dày dính màn phổi (diện tích dưới 1/4 hai phế trường).

+ Đứt dây chằng liên gai và trên gai L1, L2, vỡ gãy trượt cột sống L1, L2 (xẹp L1, L2), gãy gai sau L1, đã điều trị phẫu thuật cố định 02 nẹp dọc cột sống thắt lưng, đặt dẫn lưu. Hiện tại vết thương và vết mổ đã tạo sẹo, nạn nhân đi đứng được, vận động cột sống lưng còn hạn chế do đau, không có biểu hiện rối loạn cơ vòng cơ tròn.

- Các tổn thương phần mềm nêu trên.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 59% (năm mươi chín phần trăm).

* Tại Kết luận giám định số: 812/C09C (Đ5) ngày 19/11/2018 của Phân viện KHHS tại thành phố Đà Nẵng:

- Trên 02 cây kiếm có dính máu của Phan Văn P. Trên áo thun màu đen không có dính máu người.

- Trên 02 cây kiếm và áo thun màu đen không có ADN của Lê Văn Anh T.

* Tang vật thu giữ:

- 01 (một) cây kiếm có vỏ bọc bên ngoài (khi lắp vỏ vào dài khoảng 58cm); cán bằng gỗ dài 16cm, phần giáp với lưỡi kiếm được quấn bằng dây màu xanh; lưỡi kiếm bằng kim loại màu sáng, dài khoảng 36cm;

- 01 (một) cây kiếm có vỏ bọc bên ngoài (khi lắp vỏ vào dài khoảng 94cm); cán bằng gỗ dài 22cm, hai đầu cán có vòng kim loại màu vàng; lưỡi kiếm bằng kim loại màu sáng, dài khoảng 64cm, trên lưỡi kiếm có 11 lỗ tròn;

- 01 (một) áo thun màu đen, bên ngực phải có in Logo hiệu Nike, bên phía tay áo bên trái có dòng chữ: “DRI-FIT”;

- 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu xám-đen, biển kiểm soát: 43D1-338.00 (đăng ký sở hữu là ông Văn Quang T, sinh năm: 1978, thành phố Đà Nẵng - ông T đã bán nhà đi khỏi địa phương, không xác định được nơi ở mới, ông T bán xe này cho bà Lê Thị Thu L (sinh năm 1984, trú phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng) - chị ruột của Lê Văn Anh T nhưng không còn giữ giấy tờ mua bán (do thất lạc).

* Về dân sự:

Quá trình điều tra, Phan Văn P yêu cầu bồi thường với tổng số tiền là: 590.000.000 đ (năm trăm chín mươi triệu đồng). Trong đó:

+ Tiền viện phí, thuốc men điều trị thương tích là: 70.000.000 đ (bảy mươi triệu đồng);

+ Tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe, ảnh hưởng do dị tật: 520.000.000đ (năm trăm hai mươi triệu đồng).

Quá trình điều tra, gia đình Lê Văn Anh T đã bồi thường cho người bị hại: 45.000.000đ (bốn mươi lăm triệu đồng); gia đình Nguyễn Văn T2 đã bồi thường: 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng); gia đình Nguyễn Trí T1 đã bồi thường 10.000.000đ (mười triệu đồng); và tại phiên tòa gia đình bị cáo Trần Nhật Q bồi thường cho người bị hại được 5.000.000đ (năm triệu đồng). Tổng cộng gia đình các bị cáo đã bồi thường được 75.000.000đ (bảy mươi lăm triệu đồng).

Tại bản cáo trạng số 64/CT-VKS-P1 ngày 25 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đã truy tố Lê Văn Anh T, Nguyễn Trí T1, Nguyễn Văn T2 và Trần Nhật Q đã phạm vào tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2019/HS-ST ngày 20 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định Tuyên bố: Các bị cáo Lê Văn Anh T, Nguyễn Trí T1, Nguyễn Văn T2, Trần Nhật Q phạm tội “Giết người”;

1. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 57; Điều 58 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Lê Văn Anh T 10 (mười) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/9/2018.

2. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54; Điều 57; Điều 58 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Nguyễn Văn T2 09 (chín) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/4/2019.

3. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54; Điều 57; Điều 58 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Nguyễn Trí T1 08 (tám) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/4/2019.

4. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 57; Điều 58 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Trần Nhật Q 06 (sáu) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/4/2019.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về về trách nhiệm dân sự và việc bồi thường thiệt hại, về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi án xử sơ thẩm: Ngày 26/11/2019, các bị cáo: Trần Nhật Q, Lê Văn Anh T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; ngày 02 và 03/12/2019, các bị cáo: Nguyễn Văn T2, Nguyễn Trí T1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa: các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2019/HS-ST ngày 20/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng; các luật sư bào chữa cho bị cáo: Trần Nhật Q, Lê Văn Anh T, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Trí T1 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Sau khi nghe: Các bị cáo trình bày ý kiến về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; quan điểm của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án; lời bào chữa của luật sư bào chữa cho các bị cáo và tranh luận tại phiên tòa. Sau khi thảo luận và nghị án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Theo lời khai của các bị cáo và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm thì có cơ sở để kết luận: Vào khoảng 22 giờ 30 ngày 27/6/2018, do có mâu thuẫn trước đó với Phan Văn P và phát hiện P đang ở quán Karaoke T (số 68-70 đường Ninh Tốn, quận L, thành phố Đà Nẵng) nên Lê Văn Anh T đã cùng với Nguyễn Trí T1, Nguyễn Văn T2 và Trần Nhật Q mang 03 cây kiếm tự tạo đến quán Karaoke T để đánh Phan Văn P. Khi đến quán Karaoke T các bị cáo đã cầm hung khí xông vào phòng số 505 đánh, chém Phan Văn P. Phan Văn P bị chém 03 nhát vào lưng, khi P ngã thì Q dùng ly nhựa ném vào người P. Hậu quả theo kết luận giám định pháp y về thương tích số 208/TgT ngày 21/8/2018 của Trung tâm pháp y thành phố Đà Nẵng thì Phan Văn P bị: Vết thương vùng lưng thấu ngực phải: đứt xương sườn VI, VII, rách thùy dưới phổi phải, tràn máu màng phổi; đứt dây chằng liên gai và trên gai L1, L2, vỡ gãy trượt cột sống L1, L2, gãy gai sau L1. Tỷ lệ thương tích 59%.

Với hành vi và hậu quả như trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2019/HS- ST ngày 20/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã tuyên bố các bị cáo: Lê Văn Anh T, Nguyễn Trí T1, Nguyễn Văn T2 và Trần Nhật Q phạm tội “Giết người”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ của các bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo bị truy tố và xét xử về tội: “Giết người ” theo tình tiết định khung tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Sau khi phạm tội, các bị cáo khai báo thành khẩn và tác động cho gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho người bị hại; mặt khác, trong vụ án này do hậu quả chưa làm chết người và có nhiều bị cáo cùng tham gia nên án sơ thẩm cũng đã áp dụng các quy định tại các Điều 54, 57 và 58 Bộ luật hình sự năm 2015 cho các bị cáo để xử phạt bị cáo: Lê Văn Anh T 10 năm tù; Nguyễn Văn T2 09 năm tù; Nguyễn Trí T1 08 năm tù và Trần Nhật Q 06 năm tù đều là các mức án dưới khung của tội mà các bị cáo bị truy tố và xét xử là có căn cứ đúng với tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân của từng bị cáo cũng như hậu quả mà các bị cáo đã gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo: Lê Văn Anh T, Nguyễn Trí T1, Nguyễn Văn T2 và Trần Nhật Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2019/HS-ST ngày 20/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đối với các bị cáo: Lê Văn Anh T, Nguyễn Trí T1, Nguyễn Văn T2 và Trần Nhật Q.

[3]. Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo: Lê Văn Anh T, Nguyễn Trí T1, Nguyễn Văn T2 và Trần Nhật Q phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

[4]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về: Trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; án phí sơ thẩm và quy định về thi hành án không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét và được thực hiện theo quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2019/HS-ST ngày 20/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Từ những nhận định trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo: Lê Văn Anh T, Nguyễn Trí T1, Nguyễn Văn T2 và Trần Nhật Q. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2019/HS-ST ngày 20/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

2. Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 57 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.

+ Xử phạt bị cáo Lê Văn Anh T 10 (mười) năm tù về tội: “Giết người”. Thời gian chấp hành hình phạt của bị cáo tính từ ngày 12 tháng 9 năm 2018.

3. Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54; Điều 57 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T2 09 (chín) năm tù về tội: “Giết người”. Thời gian chấp hành hình phạt của bị cáo tính từ ngày 24 tháng 4 năm 2019.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Trí T1 08 (tám) năm tù về tội: “Giết người”.

Thời gian chấp hành hình phạt của bị cáo tính từ ngày 13 tháng 4 năm 2019.

4. Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khon 2 Điều 54; Điều 57 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.

+ Xử phạt bị cáo Trần Nhật Q 06 (sáu) năm tù về tội: “Giết người”. Thời gian chấp hành hình phạt của bị cáo tính từ ngày 24 tháng 4 năm 2019.

5. Án phí phúc thẩm:

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

+ Buộc các bị cáo: Lê Văn Anh T, Nguyễn Trí T1, Nguyễn Văn T2 và Trần Nhật Q mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

6. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về: Trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; án phí sơ thẩm và quy định về thi hành án không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét và được thực hiện theo quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2019/HSST ngày 20/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2020/HS-PT ngày 25/02/2020 về tội giết người

Số hiệu:39/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về