Bản án 39/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU NGANG, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 39/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 40/2019/TLST-HS, ngày 12 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2019/QĐXXST-HS, ngày 13 tháng 11 năm 2019 đối với:

Bị cáo Thạch Sô C, sinh năm 1984, nơi sinh tại tỉnh Trà Vinh. Nơi cư trú: Ấp L, xã N, huyện C, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thạch Sô P và bà Thạch Thị T; vợ tên Thạch Thị Sê T; có 01 người con sinh năm 2013.

Tiền án: Vào ngày 14/5/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè xử phạt 01 năm tù giam về tội Trộm cắp tài sản; ngày 02/7/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang xử phạt 01 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tổng hợp hình phạt là 02 năm tù giam. Đã chấp hành xong án phạt tù vào ngày 13/11/2015 nhưng đến nay chưa được xóa án tích, do bị cáo không đóng tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm 400.000 đồng;

Tiền sự: Không; nhân thân: Có tiền án; bị bắt tạm giam từ ngày 16/10/2019, đến đến nay, bị cáo có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Lut sư Võ Thanh L thực hiện Trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Trà Vinh. Có mặt.

Bị hại: Ông Thạch T, sinh năm 1941.

Địa chỉ: Ấp N, xã N, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Có mặt.

Người phiên dịch: Ông Kim Na R - nguyên Cán bộ Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện C, tỉnh Trà Vinh. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ, ngày 20/8/2019, bị can Thạch Sô C đến nhà Thạch P để uống rượu, sau đó bị can C cùng với P đi đến nhà ông Thạch H để tiếp tục uống rượu. Sau khi uống rượu xong, bị can Ch hỏi mượn xe mô tô biển số 84H1-0969 của ông Thạch H chạy về nhà và được ông Thạch H đồng ý, sau khi về đến nhà thì bị can C chở P đến nhà Nội của bị can ngụ xã N, huyện T để chơi, khi chạy xe đến ấp Là Ca B, xã Nhị Trường thì xe hết xăng, do không có tiền đỗ xăng nên cả hai dẫn bộ xe quay trở lại nhà bị can.

Đến khoảng 00 giờ ngày 21/8/2019 bị can C rũ P đi qua nhà P để uống rượu tiếp, trên đường đi bị can C bàn với P là trộm gà để làm mồi uống rượu và Phúc đồng ý. Khi cả hai đi ngang nhà ông Thạch T ngụ ấp Nô Lựa B, xã Nhị Trường, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, bị can C biết nhà của ông T có nuôi gà nhốt ở phía sau nhà nên bị can C kêu P đứng ở ngoài canh giữ, nếu có người đến thì báo cho bị can C biết và P đồng ý. Lúc này bị can C lén lút vào chuồng nuôi gà của ông T bắt trộm một con gà trống rồi mang ra ngoài rồi cùng với P đi về ấp Bông Ven, xã Nhị Trường, khi đi đến ấp Nô Lựa A, xã Nhị Trường thì bị lực lượng tuần tra Công an phát hiện và bắt quả tang. Còn Thạch P bỏ chạy trốn thoát và bỏ đi khỏi nơi cư trú đến nay chưa làm việc được.

Căn cứ kết luận định giá tài sản số:12/KL.HĐĐG, ngày 17/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự huyện Cầu Ngang xác định tài sản thiệt hại là 01 con gà trống, trọng lượng 2,6kg giá là 260.000 đồng.

Ngày 15/10/2019, Cơ quan điều tra Công an huyện Cầu Ngang ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đến ngày 16/10/2019 ra quyết định bắt tạm giam đối với Thạch Sô C về hành vi trộm cắp tài sản cho đến nay. Đối với Thạch P khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã quản lý vật chứng gồm 01 con gà trống, trọng lượng 2,6kg, lông màu đỏ đen, chân màu vàng và sau đó xử lý vật chứng trả lại cho bị hại ông Thạch T nhận lại con gà này. Về trách nhiệm dân sự ông Thạch T không yêu cầu gì thêm.

Ti bản Cáo trạng số: 38/CT-VKS-HS, ngày 11/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, đã quyết định truy tố bị can Thạch Sô C về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Thạch Sô C khai nhận: Vào khoảng 00 giờ ngày 21/8/2019, bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 con gà trống trọng lượng 2,6kg, lông màu đỏ đen, chân màu vàng của ông Thạch T thì bị lực lượng tuần tra Công an phát hiện bắt quả tang cùng tang vật. Các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị cáo khai là tự nguyện, đúng sự thật, không ai ép buộc, bị cáo thống nhất nội dung bản Cáo trạng, không có ý kiến bổ sung hay khiếu nại gì về nội dung bản Cáo trạng, mà thống nhất với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Tại phiên tòa bị hại ông Thạch T trình bày: Ngày 21/8/2019, ông bị mất trộm 01 con gà trống, trọng lượng 2,6kg, lông màu đỏ đen, chân màu vàng do bị cáo trộm là đúng sự thật. Ông đã nhận lại con gà bị mất nay không yêu cầu gì, về trách nhiệm hình sự ông xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ti phiên tòa, Kiểm sát viên ông Hứa Văn Biên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Thạch Sô C phạm tội “Trộm cắp tài sản”, áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Thạch T đã nhận lại tài sản bị mất, nay ông không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết. Ngoài ra Kiểm sát viên đề nghị buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Luật sư Võ Thanh L thực hiện Trợ giúp pháp lý phát biểu lời bào chữa cho bị cáo Thạch Sô C: Khẳng định bản Cáo trạng số: 38/CT-VKS-HS, ngày 11/11/2019 của Viện kiểm sát huyện Cầu Ngang truy tố bị cáo Thạch Sô C về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng. Luật sư không bào chữa về tội danh và khung hình phạt mà chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bởi vì bị cáo là người dân tộc khmer, có trình độ học vấn thấp, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; bị cáo tích cực hợp tác trong quá trình giải quyết vụ án và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị áp dụng điểm h, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử bị cáo mức án thấp nhất của khung hình phạt.

Bị cáo Thạch Sô C nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 con gà trống của ông T, bị cáo rất ăn năn, hối hận, bị cáo có tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Thạch Sô C khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng mô tả, phù hợp với lời khai, biên bản hỏi cung của bị cáo khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Vào khoảng 00 giờ ngày 21/8/2019, bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 con gà trống trọng lượng 2,6kg trị giá 260.000 đồng của ông Thạch T thì bị lực lượng tuần tra Công an phát hiện và bắt quả tang cùng tang vật. Tài sản bị cáo lấy trộm được tuy chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự, do bị cáo có tiền án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích, mà lại tiếp tục thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản, nên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Từ những chứng cứ đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Thạch Sô C phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

Ti phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử đã thẩm tra các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử thấy rằng các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đều đúng quy định pháp luật. Những người tham gia tố tụng không có khiếu nại hoặc có ý kiến nào khác phản đối các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nên các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi vì tài sản hợp pháp của công dân là quyền bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm tài sản của người khác mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu là vi phạm pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, có sức khỏe để tham gia lao động tạo ra của cải vật chất nuôi sống bản thân và giúp ích gia đình, nhưng bị cáo không làm được việc này, bản thân bị cáo có tiền án về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản đến nay chưa được xóa án tích, bị cáo không biết hối cải, khắc phục hành vi sai trái của mình, vì muốn có mồi để nhậu bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp 01 con gà trống của ông Thân, đã dẫn bị cáo đến con đường phạm tội.

Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, tuy tài sản bị cáo lấy trộm có giá trị không lớn nhưng đã gây ra sự bất bình trong quần chúng nhân dân, làm cho quần chúng nhân dân không an tâm lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội, trong thời gian gần đây hành vi trộm cắp tài sản xảy ra khá phổ biến trên địa bàn huyện Cầu Ngang, làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do đó cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tù nhất định, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội chưa gây thiệt hại; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự sẽ được áp dụng khi quyết định hình phạt.

[2]. Về trách nhiệm dân sự: Ông Thạch T là bị hại trong vụ án, ông đã nhận đủ tài sản bị mất trộm. Tại phiên tòa ông T không có đặt ra yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản gì thêm. Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Xét lời của Luật sư Võ Thanh L, bào chữa cho bị cáo Thạch Sô C đề nghị áp dụng điểm h, s, t khoản 1 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, tuy nhiên về tình tiết giảm nhẹ tại điểm t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Luật sư đề nghị áp dụng là không có cơ sở. Bởi vì bị cáo thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang, quá trình điều tra bị cáo không có khai báo giúp cho Cơ quan Điều tra phát hiện tội phạm khác nên Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận 01 phần lời đề nghị của vị Luật sư.

[4]. Xét ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cầu Ngang trình bày về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và án phí hình sự sơ thẩm nêu trên là có căn cứ và được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Thạch Sô C có nghĩa vụ nộp 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Thạch Sô C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Thạch Sô C 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày 16 tháng 10 năm 2019.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Thạch Sô C nộp 200.000 đồng án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 06; Điều 07 và Điều 09 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:39/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Ngang - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về