Bản án 39/2019/HS-ST ngày 13/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 39/2019/HS-ST NGÀY 13/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 36/2019/HSST ngày 01 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Đặng Tuấn Đ (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 01 tháng 6 năm 1988 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 8, khối 9, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Sỹ N, sinh năm 1952 (đã chết) và con bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1952; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không có; tiền sự: Ngày 28/12/2010 bị Công an thành phố L phạt 1.500.000 đồng về hành vi trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng người khác. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/12/2018 đến ngày 14/12/2018 được thay thế biện pháp ngặn chặn cho bảo lĩnh. Có mặt.

- Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị S; có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Hoàng Văn C; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện chất ma túy từ năm 2012 nên Đặng Tuấn Đ thường mua Heroine để sử dụng. Khoảng 09 giờ ngày 10/12/2018, Đặng Tuấn Đ ra khu vực Bưu điện trung tâm tỉnh L để tìm mua ma túy. Tại đây, Đặng Tuấn Đ gặp và hỏi 01 người đàn ông đi xe ôm không biết tên, địa chỉ mua ma túy, người đàn ông đồng ý. Đặng Tuấn Đ đưa cho người đàn ông 100.000đ (một trăm nghìn đồng), người đó bảo Đặng Tiến Đạt đứng chờ, khoảng 10 phút sau người đàn ông đó quay lại và đưa cho Đặng Tuấn Đ 01 (một) gói Heroine. Sau khi mua được ma túy, Đặng Tuấn Đ đi về nhà, trên đường đi về nhà Đặng Tuấn Đ đã rẽ vào hiệu thuốc tân dược gần Trường trung học cơ sở V mua 02 (hai) bơm kim tiêm; 02 (hai) ống novocain để về sử dụng chất ma túy. Cùng ngày 10/12/2018 Công an phường V, thành phố L nhận được đơn trình báo của bà Nguyễn Thị S, phản ánh Đặng Tuấn Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ nội dung đơn, Công an phường V, thành phố L đã cử tổ công tác xuống kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện và thu giữ trên đệm trong phòng ngủ của Đặng Tuấn Đ 01 (một) gói giấy nhỏ, bên trong chứ chất bột màu trắng; 02 (hai) bơm kim tiêm; 02 (hai) ống novocain, Đặng Tuấn Đ khai đó là chất ma túy Heroine mua về để về sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an kiểm tra phát hiện thu giữ số ma túy nêu trên.

Tại Kết luận giám định số 29/KL-PC09 ngày 15 tháng 12 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng có trong gói giấy thu giữ của Đặng Tuấn Đ là chất ma túy Heroine có tổng khối lượng 0,130 gam.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Đặng Tuấn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 39/CT-VKS, ngày 31/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Đặng Tuấn Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Đặng Tuấn Đ khai nhận: Ngày 10/12/2018 bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy Heroine, nguồn gốc gói ma túy bị cáo tàng trữ là bị cáo đã nhờ một người đàn ông đi xe ôm không biết tên, địa chỉ mua với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo đem gói ma túy về nhà, chưa kịp sử dụng thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt giữ cùng với tang vật.

Ti phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Đặng Tuấn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Đặng Tuấn Đ mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có điều kiện thi hành.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật (chất ma túy) sau giám định.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Đặng Tuấn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản sự việc, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đặng Tuấn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Đặng Tuấn Đ là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước. Ma tuý là chất gây nghiện, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của con người và nền kinh tế của đất nước, gây mất trật tự an ninh tại địa phương, bi cao nhân thưc được tac hai cua ma tuy, biết viêc tàng trữ chất ma tuy là trái phép bi phap luât ngăn cấm nhưng vân cố ý thực hiện, vì vậy đối với hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật để nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nêu trên cần xem xét những yếu tố liên quan đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các yếu tố khác có liên quan của bị cáo, trên cơ sở xem xét lời đề nghị, luận tội của Viện kiểm sát.

[5] Xét về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đặng Tuấn Đ là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa đều thành khẩn khai báo, trong gia đình bị cáo có bố là ông Đặng Sỹ N được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng ba nên bị cáo có tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng: Không có.

[6] Từ những phân tích như trên Hội đồng xét xử thấy rằng cần xử phạt bị cáo Đặng Tuấn Đ như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng để thi hành.

[7] Về xử lý vật chứng: 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật (chất ma túy) sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với người đàn ông lái xe ôm đã mua hộ ma túy cho bị cáo ngày 10/12/2018, do bị cáo không biết tên tuổi địa chỉ cụ thể nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có cơ sở để xác minh, xử lý trong vụ án nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[10] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

n cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Tuấn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đặng Tuấn Đ 15 (mười lăm) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt giam thi hành án, nhưng được trừ đi 04 (bốn) ngày bị cáo đã bị tạm giữ (từ ngày 10/12/2018 đến ngày 14/12/2018).

3. Xử lý vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật (chất ma túy) sau giám định.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11 tháng 02 năm 2019 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án án dân sự phố Lạng Sơn).

4. Án phí: Buộc bị cáo Đặng Tuấn Đ phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HS-ST ngày 13/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về