Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 26/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 39/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại Hội trường Toà án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 156/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2019/QĐXX-ST ngày 21 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Mai Thị H - Sinh năm 1984

Địa chỉ: Thôn K, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

2. Bị đơn: Anh Mai Xuân Th - Sinh năm 1984

Địa chỉ: Thôn K, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

Tại phiên toà vắng mặt chị H và anh Th.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 20/8/2019 và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn chị Mai Thị H trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Mai Xuân Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có tổ chức cưới và được UBND xã Hà Ng, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 10/9/2013. Sau khi cưới vợ chồng sống chung sống hạnh phúc được khoảng một tháng thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính cách và kinh tế nên tH xuyên cãi chửi nhau, anh Th nhiều lần đánh chị. Khoảng cuối năm 2013 đầu năm 2014 anh Th đánh chị nên Công an xã đến giải quyết. Đến cuối năm 2016 chị bỏ về nhà bố mẹ đẻ để ở và từ đó vợ chồng sống ly thân không quan tâm đến nhau. Chị đã 02 lần làm đơn xin ly hôn tại Tòa án vào đầu năm 2017 và 2019, nhưng cả 02 lần chị đều xin rút đơn. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, thời gian ly thân đã lâu nên chị xin được ly hôn anh Th.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu: Mai Thị Khánh Ng - Sinh ngày: 14/7/2014. Hiện nay cháu khỏe mạnh bình tH và đang ở với anh Th. Ly hôn nguyện vọng của chị là giao con cho anh Th trực tiếp nuôi dưỡng cháu Ng và chị cấp dưỡng nuôi con cùng anh mỗi tháng là 1.000.000đồng.

- Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Sau khi Toà án thụ lý vụ án, Toà án nhân dân huyện Hà Trung đã triệu tập anh Th và đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng liên quan theo đúng quy định đối với anh Mai Xuân Th nhưng anh Th không đến làm việc nên không có lời khai để thể hiện nguyện vọng của anh.

* Theo ông Mai Xuân H là bố đẻ của anh Mai Xuân Th cho biết:

Anh Th và chị H kết hôn năm 2013. Sau khi kết hôn được một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là hai bên không hợp nhau về tính cách nên tH xuyên cải chửi nhau, hơn nữa chị H còn nhiều lần chửi chồng và bố mẹ chồng, đã có lần chị còn đánh chồng. Cuối năm 2013 vợ chồng cải và đánh nhau nên Công an thôn đã đến can ngăn, tình cảm vợ chồng tH xuyên cải nhau nên từ cuối năm 2015 đầu năm 2016 chị H bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ đó vợ chồng ly thân. Vợ chồng có 01 con chung là Mai Thị Khánh Ng, sinh năm 2014, từ khi chị H bỏ đi cháu vẫn ở với bố và ông bà nội, chị H không quan tâm đến cháu. Anh Th hiện nay làm nghề tự do đi làm hàng tuần mới về rồi lại đi. Sau khi Toà án thụ lý vụ án, Toà án có giao thông báo thụ lý vụ án, văn bản tố tụng đến nhà ông và ông đã trực tiếp giao và thông báo cho anh Th biết, anh Th chỉ có ý kiến là do bận nên không đến Tòa án làm việc, còn đề nghị giải quyết là đồng ý ly hôn với chị H, về con do chị H đã bỏ con từ năm 2016 đến nay và không quân tâm đến con nên anh muốn được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con, về tài sản vợ chồng không có gì.

* Theo quan điểm của chính quyền xã H cho biết: Chị H và anh Th kết hôn năm 2013, sau khi kết hôn thì chỉ được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng gặp khó khăn về kinh tế và không hợp về tính cách nên hay cải nhau, nhiền lần đánh chửi nhau, có lần cả Công an và thôn đến can ngăn, hòa giải. Do mâu thuẫn nên từ năm 2016 đến nay chị H bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống từ đó vợ chồng sống ly thân. Vợ chồng có 01 con chung, từ khi chị H bỏ đi cháu ở với bố và ông bà nội, cháu được bố và gia đình chăm sóc phát triển bình tH và đang theo học tại trường mầm non của địa phương. Chị H từ khi bỏ đi đến nay không quay về địa phương sinh sống.

Do chị H có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Tại phiên Toà, Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn của chị H, xử cho chị H được ly hôn anh Th, về con chung giao cháu Mai Thị Khánh Ng cho anh Th trực tiếp nuôi dưỡng, chị H phải cấp dưỡng nuôi con cùng anh Th mỗi tháng 1.000.000đ/tháng. Chị H phải chịu án phí DSST.

Tại phiên tòa hôm nay chị H giữ nguyên toàn bộ yêu cầu khởi kiện, các bên không thỏa thuận với nhau về giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Mai Xuân Th không có mặt tại phiên toà, Toà án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục và phiên toà cũng được hoãn lần thứ nhất. Chị Mai Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 238 BLTTDS xét xử vắng mặt chị H và anh Th.

[2] Về hôn nhân: Chị Mai Thị H và anh Mai Xuân Th kết hôn năm 2013 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Theo chị H vợ chồng chung sống đến cuối năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên tH xuyên cãi chửi đánh nhau và từ cuối năm 2016 đến nay vợ chồng chị sống ly thân không quan tâm đến nhau.

Đi với anh Mai Xuân Th dù biết chị H có đơn xin ly hôn, anh Th đã được Tòa án tống đạt các văn bản nhưng anh Th vắng mặt tại Tòa án và không có ý kiến và nguyện vọng của mình về tình trạng hôn nhân, chứng tỏ anh Th không còn thiết tha níu kéo tình cảm vợ chồng. Ngoài ra theo ông H là bố anh Th và chính quyền xã Hà Ng cho biết vợ chồng anh Th sau khi kết hôn chung sống đến cuối năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Từ đầu năm 2016 chị H bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, không về lần nào và từ đó vợ chồng sống ly thân không quan tâm đến nhau.

Xét thấy, nguyện vọng xin được ly hôn của chị H là có cơ sở, mâu thuẫn vợ chồng của anh chị đã trầm trọng, kéo dài trong nhiều năm, anh chị đã có thời gian dài sống ly thân và không ai quan tâm đến ai. Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống, hạnh phúc gia đình, nhưng ở đây chị H đã thực sự không còn tình cảm với anh Th, đã hai lần chị có đơn xin ly hôn tại Tòa án và đến nay anh Th bỏ mặc việc giải quyết vụ án không thiết tha níu kéo tình cảm vợ chồng. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó cải thiện được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H và căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn anh Th là phù hợp.

[3] Về con: Vợ chồng có 01 con chung là cháu: Mai Thị Khánh Ng, sinh ngày 14/7/2014. Ly hôn chị H đề nghị được giao con cho anh Th nuôi dưỡng. Chị H đã xuất trình trích lục giấy khai sinh của cháu Ng và có ghi tên mẹ là Mai Thị H và bố là Mai Xuân Th. Như vậy đủ cơ sở khẳng định cháu Ng là con chung của chị H và anh Th.

Hi đồng xét xử thấy rằng: Từ khi vợ chồng sống ly thân chị không quan tâm chăm sóc con, anh Th vẫn chăm sóc nuôi dưỡng cháu tốt. Theo ông Hòa là bố anh Th nếu vợ chồng ly hôn thì giao con cho anh Th nuôi là tốt nhất vì chị H không quan tâm, bỏ mặc việc nuôi con. Ngoài ra hiện nay cháu Ng cũng đang theo học mầm non tại trường xã, nên không cần làm xáo trộn việc nuôi dưỡng sẽ làm ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh hoạt của cháu. Do vậy cần áp dụng Điều 81 và 82 Luật HN&GĐ giao cháu Ng cho anh Th trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dương nuôi con: Chị H đề nghị được cấp dưỡng nuôi con cùng anh Th thì thấy rằng, người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng, mà đây cũng là nguyện vọng của chị và mức cấp dưỡng chị đưa ra cũng phù hợp với thu nhập cũng như mức sống hiện nay. Do vậy Hội đồng xét xử buộc chị H phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.000.000đồng. Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 12/2019 đến khi cháu Ng đủ 18 tuổi.

[4] Về tài sản: Chị H không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Mai Thị H phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm và tiền án phí nghĩa vụ cấp dưỡng theo định kỳ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 238; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban tH vụ Quốc Hội quy định về án phí Tòa án.

[1]. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Mai Thị H và anh Mai Xuân Th.

[2]. Về nuôi con chung: Công nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu: Mai Thị Khánh Ng - Sinh ngày 14 tháng 7 năm 2014.

2.1. Giao con chung Mai Thị Khánh Ng cho anh Th trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Chị Mai Thị H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Mai Xuân Th mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng từ tháng 12/2019 đến khi cháu Mai Thị Khánh Ng đủ 18 tuổi.

2.3. Chị H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[3]. Về chia tài sản: Chị Mai Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4]. Về án phí: Chị Mai Thị H phải chịu 300.000đ tiền án phí DSST và 300.000đ tin án phí DSST về nghĩa vụ cấp dưỡng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0005259 ngày 26/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị H còn phải nộp 300.000đ.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6; 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[5]. Về quyền kháng cáo: Chị H và anh Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 26/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn 

Số hiệu:39/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về