Bản án 39/2018/HSST ngày 17/04/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 39/2018/HSST NGÀY 17/04/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 04 năm 2018, tại Trụ sở tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 48/HSST ngày 30/03/2018; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2018/QĐXXST-HS ngày 02/04/2018 đối với bị cáo:

Lò Thị K. Sinh năm: 1970; Nơi sinh: huyện M, tỉnh M2;

Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Bản H, xã H1, huyện H2, tỉnh M2; Nghề nghiệp: trồng trọt; Trình độ học vấn: không. Dân tộc: Thái; Con ông: Lò Văn N, sinh năm:1922 và bà: Lò Thị C (đã chết); Có chồng là Lường Văn V, sinh năm 1973; Có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1992, con nhỏ nhất sinh năm 1993.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt, tạm giam giữ từ ngày 23/12/2017, giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Sơn La cho đến nay; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 07 giờ 10 phút ngày 23.12.2017 tổ Công tác Công an xã H1, huyện H2 làm nhiệm vụ tại bản Bản H, xã H1, huyện H2, tỉnh M2 phát hiện đối tượng Lò Thị K có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác áp sát và yêu cầu K có ma túy thì tự giác giao nộp. Sau khi được yêu cầu thì K lấy từ chân tủ quần áo gần cửa chính ra vào nhà 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 25 gói được gói bằng mảnh giấy có in chữ bên trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng nghi là hê rô in. Kiểm tra thu giữ số tiền 30.000VNĐ tại túi áo khoác K đang mặc, số tiền 460.000VNĐ thu giữ trong túi vải màu đen K đeo bên hông, 01 điện thoại di động nhãn hiệu ITEL. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Cùng ngày cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn tiến hành khám xét người, nhà ở, đồ vật với Lò Thị K. Kết quả khám xét phát hiện thu giữ trong tủ quần áo 01 ví giả da màu đỏ, bên trong có 01 gói nilon màu trắng, chứa 06 viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY nghi là hồng phiến và 10 gói được gói bằng mảnh nilon màu hồng bên trong chứa chất bột nén màu trắng nghi là hê rô in.

Quá trình điều tra Lò Thị K khai nhận:

Ngày 09.12.2017, Lò Thị K nảy sinh ý định tìm mua ma túy về bán kiếm lời. K đi bộ từ nhà đến khu vực chợ thuộc bản Huổi My, xã Chiềng Mai, huyện Mai Sơn thì gặp một người phụ nữ không quen biết đang đi bộ trên đường. K trao đổi mua bán 1.500.000VNĐ ma túy với người phụ nữ hẹn 19.12.2017 gặp tại chợ Huổi My, xã chiềng Mai để giao ma túy.

Đến khoảng 10 giờ ngày 19.12.2017, K đem theo số tiền 1.500.000VNĐ rồi đi bộ từ nhà đến khu vực chợ Huổi My thì gặp người phụ nữ hôm trước, K đưa cho người đó số tiền 1.500.000VNĐ và nhận 01 túi nilon màu trắng bên trong có các gói hê rô in và hồng phiến. Về đến nhà K mở gói nilon trắng bên trong có chứa 26 gói hê rô in và 06 gói mỗi gói chứa 1 viên hồng phiến và 10 gói chứa hê rô in.K lấy 26 gói hê rô in ban đầu cất giấu dưới chân tủ gỗ kê cạnh cửa ra vào nhà K mục đích ai hỏi mua sẽ bán 01 gói 100.000VNĐ. Số hê rô in và hồng phiến còn lại K cho vào túi nilon màu trắng rôi cất trong 01 chiếc vi giả da mầu đỏ rồi cất trong tủ quần áo mục đích để bán.

Ngày 22.12.2017 K đang ở nhà thì có một người nam giới không quen biết đến hỏi mua hê rô in với số tiền 100.000VNĐ, K nhận tiền và giao 01 gói hê rô in lấy ở chân tủ quần áo ra giao nộp. Qua khám xét cơ quan công an đã thu giữ toàn bộ số hê rô in và hồng phiến K cất giấu trong tủ.

Ngày 23.12.2017 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn phối hợp với phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh xác định trọng lượng, trích rút mẫu giám định vật chứng thu giữ của Lò Văn K. Kết quả:

Tổng trọng lượng số chất bột nén màu trắng thu giữ khi bắt quả tang và khám xét nhà K là 4,35 gam. Trích rút 2,41 gam ký hiệu M1, M3 đến M12 làm mẫu gửi giám định. Vật chứng còn lại là 1,94 gam ký hiệu T1 đến T10

Tổng trọng lượng 06 viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp là 0,59 gam, trích rút toàn bộ ký hiệu M2 làm mẫu gửi giám định.

Ngày 27.12.2017 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La ban hành bản kết luận giám định số 126/KLMT kết luận:

“Mẫu gửi giám định ký hiệu từ M3 đến M12 và M1 đều là chất ma túy; Loại chất hê rô in; tổng trọng lượng của mẫu gửi giám định là 2,41 gam Mẫu gửi giám định ký hiệu M2 là chất ma túy; Loại chất Methaphetamine; Tổng trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,59 gam; Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 4,35gam; Loại chất hê rô in và 0,59 gam loại chất methaphetamine”

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo. Tại phiên toà không phát sinh tình tiết mới.

Tại bản cáo trạng số: 25/CT-VKSMS 30/03/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Lò Thị K với nội dung: Truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Mai Sơn để xét xử đối với bị cáo Lò Thị K về tội: Mua bán trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Qua tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã phát biểu ý kiến, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Lò Thị K phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt đối với bị cáo như sau:

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Lò Thị K từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu huỷ: 1,94 gam hê rô in; 01 vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu; 01 chiếc ví giả da mầu đỏ; 01 chiếc túi loại túi vải màu đen.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 30.000VNĐ. Truy thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 70.000VNĐ

Tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án: 01 điện thoại di động nhãn hiệu IIEL, vỏ màu đỏ đen (kèm theo 02 sim) thu giữ của bị cáo; số tiền 460.000VNĐ.

Về án phí: Đề nghị áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000VNĐ.

Bị cáo Lò Thị K tự bào chữa: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiến nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 19.12.2017 vì tư lợi cá nhân, Lò Thị K đã mua hê rô in và methaphetamine của một người phụ nữ không quen biết mục đích để bán kiếm lời. Ngày 22.12.2017 K đã bán 01 gói hê rô in cho một người nam giới không quen biết với giá 100.000VNĐ. Ngày 23.12.2017 K bị tổ công tác Công an xã Chiềng Mung bắt quả tang khi đang tàng trữ 4,35 gam hê rô in và 0,59 gam methaphetamine nhằm mục đích để bán kiếm lời. Lời khai của bị cáo là hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an huyện Mai Sơn lập hồi 07 giờ 40 phút ngày 23/12/2017; biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định, biên bản hỏi cung và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy đã có đầy đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Thị K đã phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy. Với việc tàng trữ 4,35 gam hê rô in và 0,59 gam methaphetamine nhằm mục đích để bán kiếm lời thì Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn truy tố bị cáo Lò Thị K tại Bản cáo trạng số: 25/CT-VKSMS ngày 30.03.2018 về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Xét thấy tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, làm tăng tệ nạn nghiện chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xét thấy: Bị cáo Lò Thị K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bản thân bị cáo có đủ năng lực nhận thức trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi  phạm pháp luật nhưng bị cáo đã phạm tội với lỗi cố ý. Quá trình điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo có mẹ là bà Lò Thị Chiêng được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 sẽ được HĐXX xem xét áp dụng cho bị cáo.

Từ sự phân tích trên, căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt thật nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đủ giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, xã hội, từ đó mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa những hành vi tương tự sẽ và đang sẩy ra.

Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo không có tài sản có giá trị, không có thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với vật chứng còn lại ký hiệu từ T1 đến T10 có tổng trọng lượng là 1,94 gam hê rô in. Xét thấy là chất độc dược Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu; 01 chiếc ví giả da mầu đỏ; 01 chiếc túi loại túi vải màu đen. Xét thấy không là vật chứng của vụ án và vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu IIEL (kèm theo 02 sim); số tiền 460.000VNĐ thu giữ của bị cáo. Xét thấy là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, do đó cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với việc ngày 22.12.2017 bị cáo Lò Thị K bán 01 gói hê rô in cho người nam giới không quen biết với giá 100.000VNĐ, bị cáo đã sử dụng 70.000VNĐ để chi tiêu cá nhân còn 30.000VNĐ cơ quan điều tra thu giữ trong túi áo khoác của bị cáo, bị cáo khai nhận số tiền 30.000VNĐ có nguồn gốc do bán ma túy mà có nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước và truy thu 70.000VNĐ để sung công quỹ Nhà nước.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000VNĐ.

Về nguồn gốc ma tuý: Bị cáo K khai mua của người phụ nữ không biết họ tên, tuổi, địa chỉ, quá trình trao đổi không ai biết, chứng kiến nên Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn không có cơ sở để điều tra xác minh.

Về vấn đề khác: Đối với người nam giới đến mua hê rô in của Lò Thị K vào ngày 22.12.2017. K khai không quen biết người nam giới đó, việc trao đổi không ai biết, chứng kiến nên Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn không có cơ sở để điều tra xác minh.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lò Thị K phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999:

Xử phạt bị cáo Lò Thị K 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù giam, thời gian thụ hình tính từ ngày bắt 23.12.2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Tuyên tịch thu tiêu huỷ: 1,94 gam hê rô in; 01 vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu; 01 chiếc ví giả da mầu đỏ; 01 chiếc túi loại túi vài màu đen.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 30.000VNĐ. Truy thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 70.000VNĐ

Tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án: 01 điện thoại di động nhãn hiệu IIEL, vỏ màu đỏ đen (kèm theo 02 sim) thu giữ của bị cáo; số tiền 460.000VNĐ.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000VNĐ.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2018/HSST ngày 17/04/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về