Bản án 39/2018/HS-PT ngày 25/01/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 39/2018/HS-PT NGÀY 25/01/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 25 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 695/2017/HSPT ngày 25/12/2017 đối với bị cáo Lê Anh N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 221/2017/HSST ngày 16/11/2017 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lê Anh N, giới tính: nam; sinh năm 1982 tại Tỉnh X; trú tại: Phường A, Quận A1, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 3/12; nghề nghiệp: buôn bán; con ông Huỳnh Thế H (chết) và con bà Lê Thị G; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Ngày 23/8/2013, Lê Anh N bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử 01 năm tù nhưng hưởng án treo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

- Các bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị: Lục Bát B và Diệp Thụ C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào trưa ngày 03/11/2012, Lục Bát B đi vào bãi giữ xe siêu thị X, Phường Y, quận A, thấy có chiếc xe gắn máy hiệu Honda Wave Alpha biển số 61R1- 5794 của chị D để trong bãi giữ xe có đặc điểm giống với chiếc xe của mình, nên B chạy xe của mình ra chỗ vắng, lấy giấy decal và khung biển số rỗng đã chuẩn bị từ trước để làm giả biển số 61R1-5794 rồi gắn vào xe của mình rồi mang vào bãi giữ xe siêu thị X gửi lấy thẻ xe, sau đó B đi dạo một vòng siêu thị rồi đi ra bãi lấy xe gắn máy biển số 61R1-5794 của chị D, đưa thẻ xe cho người giữ xe và đi ra ngoài. Sau khi lấy chiếc xe này, B mang chiếc xe đến tiệm sửa xe của Diệp Thụ C tại, phường A5, Quận A2 để C tráo đổi phụ tùng chính hãng của xe bằng phụ tùng do Trung Quốc sản xuất và C trả cho B số tiền 1.500.000 đồng.

Đến ngày 05/11/2012, B dùng thủ đoạn tương tự đem chiếc xe gắn máy biển số 61R1-5794 đã bị thay đổi phụ tùng Trung Quốc đến bãi giữ xe của bệnh viện X1, Phường A6, Quận A3 để đánh tráo xe thì bị phát hiện bắt giữ giao cho Công an Phường 8, Quận 5 lập hồ sơ xử lý. Công an Quận 5 đã chuyển giao hồ sơ vụ việc Lục Bát B chiếm đoạt chiếc xe gắn máy biển số 61R1-5794 tại bãi giữ xe siêu thị X, Phường Y, quận A cho Công an quận Bình Thạnh thụ lý giải quyết.

Tại cơ quan điều tra, Diệp Thụ C khai nhận: C biết B là đối tượng đánh tráo xe chuyên nghiệp nên C hứa hẹn trước với B khi nào có xe cứ mang đến cho C thay đổi phụ tùng. Sau khi thay đổi phụ tùng xe cho B, C sẽ mang đến bán cho chủ sạp buôn bán phụ tùng xe gắn máy tại Phường A1, Quận A3 là Lê Anh N để kiếm lời. Tính từ khoảng đầu 2010 đến thời điểm cơ quan Công an bắt, C đã thay đổi phụ tùng chính hãng khoảng 30 chiếc xe và mang các bộ phụ tùng chính hãng trên bán cho N, mỗi bộ từ 2.000.000 đồng đến 2.800.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, Lê Anh N khai nhận: Từ đầu năm 2010 đến khi bị phát hiện N có mua của Diệp Thụ C nhiều bộ phụ tùng xe máy hiệu Honda Wave, mỗi bộ phụ tùng N mua của C từ 2.000.000 đồng đến 2.800.000 đồng. N biết toàn bộ phụ tùng C mang đến là do phạm tội mà có nhưng N vẫn mua và hứa hẹn với C nếu có phụ tùng thì đem đến bán cho N. Số phụ tùng N mua được của C, N để ở sạp bán dần, N thu lợi bất chính từ việc bán số phụ tùng trên từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng mỗi bộ.

Ngày 23/12/2014, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh đã xét xử sơ thẩm, tuyên phạt Lục Bát B 02 năm tù, Diệp Thụ C 01 năm tù, Lê Anh N 01 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (theo Bản án số 261/2014/HSST). Ngày 05/01/2015, Lê Anh N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 24/04/2015, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm và tuyên hủy bản án hình sự sơ thẩm số 261/2014/HSST ngày 23/12/2014 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh do cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và tại phiên tòa phúc thẩm Lê Anh N khai không liên quan, hoặc mua bán phụ tùng xe với Lục Bát B, Diệp Thụ C; chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh để điều tra lại theo thủ tục chung (theo Bản án số 266/2015/HSPT).

Kết quả điều tra lại như sau:

Diệp Thụ C khai sau khi thay đổi phụ tùng cho Lục Bát B, C đều mang đến bán cho Lê Anh N để kiếm lời. Tất cả các lần thay đổi phụ tùng xe của B, C đều trực tiếp mang đến bán cho N và N đều biết phụ tùng xe là do phạm tội mà có nhưng vẫn hứa hẹn khi nào có phụ tùng thì cứ mang tới N mua hết, trong đó có phụ tùng xe mà B chiếm đoạt của chị D. Cơ quan Điều tra đã tiến hành cho C nhận dạng xác định N là người mua phụ tùng xe máy do C phạm tội mà có. Lê Anh N khai nhận chỉ mua phụ tùng xe gắn máy của anh trai Diệp Thụ C là K, không mua phụ tùng xe của C. Cơ quan Điều tra đã tiến hành ghi lời khai anh K, anh K khai có biết Lê Anh N mở sạp mua bán phụ tùng xe gắn máy tại chợ Tân Thành, Quận A3, nhưng anh K không có bán phụ tùng xe gắn máy cho N và không có làm ăn chung với N.

Theo Bản án hình sự sơ thẩm số 221/HSST ngày 16/11/2017 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Anh N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Lê Anh N 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

Ngoài ra, bản án còn tuyên phạt Lục Bát B 02 năm tù, Diệp Thụ C 09 tháng tù cùng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã sửa đổi bổ sung năm 2009; đồng thời cũng tuyên về tiền thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 16/11/2017 Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 20/11/2017 bị cáo Lê Anh N có đơn kháng cáo vì mức hình phạt 12 tháng tù là rất nặng, không đúng.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Lê Anh N thay đổi yêu cầu kháng cáo, theo đó bị cáo kháng cáo kêu oan và bị cáo trình bày rằng bị cáo không mua bán phụ tùng xe gắn máy với Diệp Thụ C mà bị cáo chỉ mua bán với anh của C.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt hành vi, tội danh, mức hình phạt đối với bị cáo Lê Anh N theo bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo và lời trình bày của bị cáo N đã xác định: trong hồ sơ vụ án chưa có xác minh việc Lục Bát B mang chiếc xe chiếm đoạt của chị D đến cho C để tráo đổi phụ tùng vào thời gian nào, và sau đó ngày nào C đem phụ tùng đến bán cho bị cáo N và N đã bán số phụ tùng này hay chưa? Đồng thời, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo N không thừa nhận có việc hứa hẹn với Diệp Thụ C về việc mua bán phụ tùng xe máy do phạm tội mà có và bị cáo cũng xác định không có việc mua bán phụ tùng xe gắn máy với Diệp Thụ C mà bị cáo chỉ mua bán với anh của C. Do vụ án phát sinh tình tiết mới nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên hủy bán án sơ thẩm để điều tra, truy tố và xét xử lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 16/11/2017, Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 20/11/2017 bị cáo Lê Anh N làm đơn kháng cáo xin xem xét lại bản án sơ thẩm vì mức hình phạt là nặng.

[2] Xét nội dung kháng cáo: Mặc dù tại phiên toà sơ thẩm ngày 16/11/2017 cũng như phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo N thay đổi lời khai không thừa nhận có việc mua bán phụ tùng xe máy với Diệp Thụ C mà chỉ mua bán phụ tùng xe máy với K (là anh của C), cơ quan Cảnh sát điều tra cũng đã xác minh ông K nhưng ông không thừa nhận có việc mua bán phụ tùng xe máy với N. Xét lời khai của Lê Anh N, trước đó tại Cơ quan điều tra Công an Quận 5 và Cơ quan điều tra Công an quận Bình Thạnh thì chính bản thân bị cáo N thừa nhận có việc hứa hẹn trước với C về việc mua bán phụ tùng xe máy do phạm tội mà có. Ngoài lời khai này của N tại cơ quan điều tra thì hành vi của bị cáo còn được nêu bật trong bản án hình sự sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật (theo Bản án số 119/2013/HSST ngày 23/8/2013 của Tòa án nhân dân Quận 5).

Lời khai của bị cáo N tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của Diệp Thụ C và Lục Bát B. Theo đó, kể từ ngày 07/11/2012 trở về trước thì bị cáo Diệp Thụ C đã bán và Lê Anh N đã mua khoảng 30 bộ phụ tùng xe máy do phạm tội mà có. Đối với chiếc xe gắn máy của chị D mà Lục Bát B đã chiếm đoạt tại bãi xe của Siêu thị X, quận A vào ngày 03/11/2012 thì B đã mang đến cho Diệp Thụ C để thay đổi phụ tùng, sau đó vào ngày 05/11/2012, B mang chiếc xe này (xe đã được thay đổi phụ tùng) đến bãi xe của Bệnh viện X1 để tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thì bị phát hiện và Tòa án nhân dân Quận 5 đã xét xử đối với hành vi chiếm đoạt xe tại Quận A3. Như vậy thời điểm chị D bị mất chiếc xe gắn mày là ngày 03/11/2012 là thời điểm nằm trong khoảng thời gian mà các bị cáo đã thừa nhận về việc có bán và mua 30 bộ phụ tùng xe máy. Ngoài ra, tại phiên tòa sơ thẩm thì chính bị cáo Diệp Thụ C đã xác định về việc bán phụ tùng xe máy của xe chị D cho N. Do đó đối với yêu cầu về việc xác định thời gian mua bán phụ tùng xe máy liên quan đến chiếc xe của chị D là không cần thiết, bởi vì chiếc xe chị D bị mất trong khoảng thời gian mà các bị cáo đã thừa nhận có việc mua bán phụ tùng xe máy. Thêm nữa, hành vi phạm tội của bị cáo N là hành vi hứa hẹn trước về việc mua bán phụ tùng do phạm tội mà có, cho nên khi chiếc xe gắn máy của chị D bị chiếm đoạt thì hành vi của bị cáo N đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đối với lời khai của bị cáo N về việc bị cáo chỉ mua phụ tùng xe máy với K chứ không phải mua phụ tùng xe máy với Diệp Thụ C, nhưng lời khai này không phải là tình tiết mới, vì rằng chính bị cáo N đã trình bày lời khai này tại phiên tòa phúc thẩm ngày 24/04/2015 và Cơ quan điều tra đã điều tra, xác định K không bán phụ tùng xe máy cho bị cáo N.

Với hành vi nêu trên của bị cáo N thì Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xét xử bị cáo N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 là có cơ sở, đúng người, đúng tội.

[3] Giá trị toàn bộ chiếc xe của chị D bị chiếm đoạt là 9.000.000 đồng (không phải giá trị phụ tùng xe gắn máy) nên Viện kiểm sát nhân dân quận A, Tòa án nhân dân quận A đã truy tố và xét xử bị cáo N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 là có cơ sở.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo sự giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Lê Anh N không thừa nhận hành vi phạm tội, không có thái độ ăn năn hối cải nên không được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy không có cơ sở để giảm án cho bị cáo và cũng không có cơ sở để cho bị cáo hưởng án treo nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Lập luận trên đây cũng là căn cứ để không chấp nhận lời trình bày của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Anh N và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Áp dụng khoản 1 Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009;

Xử phạt: Lê Anh N 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

- Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

317
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2018/HS-PT ngày 25/01/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:39/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về