Bản án 39/2018/HNGĐ-ST ngày 18/04/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 39/2018/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 18 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 119/2018/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 36/2018/QĐXX-ST ngày 30 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ngọc A, sinh năm: 1979; Địa chỉ: Khu phố A, Phường B, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn H, sinh năm: 1965; Hộ khẩu thường trú: Khu phố C, Phường D, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh (xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Về quan hệ hôn nhân nguyên đơn chị Lê Thị Ngọc A trình bày: Chị và anh H chung sống như vợ chồng từ năm 2010 không có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn do không hòa hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống nên chị và anh H không còn sống chung với nhau nữa. Nay chị xin được ly hôn với anh H.

Bị đơn anh Lê Văn H: Thừa nhận lời trình bày của chị A về quan hệ hôn nhân là đúng, anh và chị A chung sống từ năm 2010 không có đăng ký kết hôn. Do sống chung tính tình không hòa hợp nên hiện nay anh và chị A đã ly thân. Nay chị A xin ly hôn, anh cũng đồng ý.

Về con chung: Chị Lê Thị Ngọc A và anh Lê Văn H xác định có 01 con chung tên Lê Ngọc N, sinh ngày 24-09-2011. Hiện nay, cháu N đang sống với chị A nên hai anh chị thỏa thuận giao cháu N cho chị A tiếp tục trông nôm, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị A không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Lê Thị Ngọc A và anh Lê Văn H không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Chị Lê Thị Ngọc A và anh Lê Văn H xác định không có.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh phát biểu:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử ( HĐXX): Thẩm phán thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, việc thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành và thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.  Bị đơn có đơn xin xử vắng mặt nên HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt là đúng theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh chưa thấy vấn đề vi phạm tố tụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử theo quy định.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng  Điều 14, 15, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Không công nhận chị Lê Thị Ngọc A và anh Lê Văn H là vợ chồng. Về con chung giao cho chị A nuôi, ghi nhận chị A không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không có nên không xem xét giải quyết. Chị A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án do các bên cung cấp, qua tranh tụng và kết quả thẩm tra các chứng cứ tại phiên tòa, lời trình bày của đương sự, ý kiến của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Lê Văn H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Khoản 1  Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Ngọc A và anh Lê Văn H tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2010, nhưng trong thời gian chung sống cho đến khi ly thân hai anh chị không có đăng ký kết hôn, nên hôn nhân của hai anh chị không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ mặc dù cả hai anh chị đều tự nguyện thuận tình ly hôn. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, không thể giải quyết hôn nhân của hai anh chị theo thủ tục ly hôn để xem xét công nhận anh chị thuận tình ly hôn mà xét thấy cần tuyên bố không công nhận chị Lê Thị Ngọc A và anh Lê Văn H là vợ chồng.

[3] Về con chung: Chị Lê Thị Ngọc A và anh Lê Văn H xác định có 01 con chung là cháu Lê Ngọc N, sinh ngày 24-09-2011. Từ ngày ly thân cháu N sống với chị A nên chị A và anh H thỏa thuận giao cháu cho chị A tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Chị A không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận.

[4] Về tài sản chung: Chị Lê Thị Ngọc A và anh Lê Văn H không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[5] Về nợ chung: Chị Lê Thị Ngọc A và anh Lê Văn H xác định không có nên không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Lê Thị Ngọc A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 8, Khoản 1 Điều 9, Khoản 1 Điều 14,  Điều 15, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về hôn nhân: Tuyên bố không công nhận chị Lê Thị Ngọc A và anh Lê Văn H là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao cháu Lê Ngọc N, sinh ngày 24-09-2011cho chị Lê Thị Ngọc A tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận chị A không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Lê Thị Ngọc A và anh Lê Văn H không yêu cầu giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị Lê Thị Ngọc A và anh Lê Văn H xác định không có. 5. Về án phí: Chị Lê Thị Ngọc A phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm Hôn nhân và gia đình, khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị A đã nộp 300.000đồng theo biên lai số 0005131 ngày 14 tháng 3 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.

Anh Lê Văn H không phải chịu án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2018/HNGĐ-ST ngày 18/04/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:39/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về