Bản án 39/2017/HSST ngày 17/08/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH, LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 39/2017/HSST NGÀY 17/08/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 17 tháng 8 năm 2017 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Di Linh. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 30/2017/HSST ngày 16/6/2017 đối với bị cáo: Trịnh Văn C, sinh năm 1990 tại Nam Định Thường trú: Tổ AA, Thị Trấn DL, huyện DL, tỉnh Lâm Đồng Nghề nghiệp: Công nhân lái xe công trình đô thị huyện Di Linh. Trình độ văn hóa:11/12.

Con ông Trịnh Văn T và bà Nguyễn Thị H Tiền sự; Tiền án: không

Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

Người bị hại:

Anh Lê Đức T, sinh năm: 1989, (đã chết)

Người đại diện hợp pháp của người bị hại Lê Đức T:

1.Ông Lê Tiền, sinh năm 1964

Thường trú: thôn A, xã TC, huyện DL, tỉnh Lâm Đồng, là bố của anh Lê Đức T.

2.Chị Lê Thị Bích P, sinh năm 1987

Thường trú: đường LTK, Tổ dân phố DD, thị trấn DL, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Là chị của anh Lê Đức T.Có mặt.

3. Anh Lê ĐA, sinh năm 1999

Thường trú: Thôn A, xã TC, huyện DL, tỉnh Lâm Đồng, là em của anh Lê Đức T.

Đại diện theo ủy quyền:

Chị Lê Thị Bích P, sinh năm 1987

Thường trú: đường LTK, Tổ dân phố DD, thị trấn DL, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 20/7/2016, Trịnh Văn C đã có giấy phép lái xe hạng A1, trong tình trạng có sử dụng rượu, bia đã điều khiển xe mô tô BS 59F1-358.61 lưu thông trên Quốc lộ 28 theo hướng từ xã TC đi ra thị trấn Di Linh, với tốc độ 40km/h, ngồi phía sau xe chở một người bạn tên Phạm Thị Cẩm L. Khi đến km 96+350 - QL 28 thuộc tổ dân phố 11, thị trấn Di Linh, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng, Trịnh Văn C dùng tay trái chỉnh kính chắn gió mũ bảo hiểm nên tay che tầm nhìn của mắt và điều khiển xe mô tô BS 59F1-358.61 lấn sang phần đường trái, tông vào Lê Đức T đang điều khiển xe mô tô BS 49P9-0554 lưu thông trên đường Quốc lộ theo hướng ngược chiều.

Hậu quả: Lê Đức T tử vong.

Tại kết luận giám định về tử thi số 226/2016/KLPY ngày 26/7/2016, Trung tâm pháp y tỉnh Lâm Đồng kết luận ông Lê Đức T tử vong do “Suy hô hấp cấp do tắc nghẽn đường thở trên tử thi bị đa chấn thương”.

Tại kết luận giám định số 2430/C54B ngày 03/8/2016, phân viện KHHS tại Thành phố Hồ Chí Minh của Tổng cục cảnh sát kết luận Lê Đức T có nồng độ cồn trong máu khi xảy ra tai nạn giao thông là 104,57mlg/100ml máu, và bà Phạm Thị Cẩm Linh bị thương tích nhưng từ chối giám định nên không xác định được tỉ lệ thương tích.

Tại biên bản kiểm tra nồng độ cồn trong hơi thở, vào hồi 21h00 ngày 20/7/2016 đối với Trịnh Văn C, theo phiếu số 1446 là 0,279mlg/l. Do Trần Văn Đức, Công an huyện Di Linh lập.

Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Đoạn đường xảy ra tai nạn giao thông thuộc Km 96+350-QL 28 thuộc tổ dân phố 11, thị trấn Di Linh, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Chọn hướng xã TC đi Quốc lộ 20 làm hướng khám nghiệm chính. Đoạn đường xảy ra tai nạn giao thông là đường nhựa bằng phẳng, rộng 3,5m, đường thẳng, không có vạch sơn chia chiều đường, làn đường. Tất cả các số đo được T từ mép đường bên trái.

Sau tai nạn, vị trí xe và người, dấu vết để lại hiện trường như sau:

- Xe mô tô BS 49P9-0554 nằm ngã nghiêng bên phải, sát lề đường theo hướng khám nghiệm. Đầu xe hướng về xã TC, đuôi xe hướng ngược lại. Tâm trục bánh trước, tâm trục bánh sau cách mép đường chuẩn lần lượt là 0,4m và 0,25m.

- Nạn nhân Lê Đức T nằm ngã nghiêng bên trái, dọc theo thân xe mô tô 49P9-0554. Đầu nạn nhân hướng về xã TC, chân hướng ngược lại. Đầu nạn nhân lần lượt cách mép đường chuẩn, tâm trục bánh xe mô tô BS: 49P9-0554 lần lượt là 0,25m và 0,20m.

- Vùng phát hiện dấu vết nhớt văng hình thành theo hướng từ xã TC đi thị trấn Di Linh và các mảnh vỡ của hai xe để lại sau va chạm, trong đó có nhiều mảnh nhựa màu đen. Tại hiện trường ghi nhận vùng này dài 2,9m, rộng 1m, có điểm đầu cách mép đường chuẩn 0,8m, tâm cách mép đường chuẩn là 0,8m.

- Xe mô tô BS: 59F1-358.61 để lại vết cày chà đứt quãng dài 2,2m, do ma sát với mặt đường tạo thành, theo chiều hướng xã TC đi Di Linh và chếch vào lề đường phải theo hướng khám nghiệm. Đầu vết cày cách mép đường chuẩn 1,2m và cách đầu vết nhớt văng là 0,6m.

- Xe mô tô BS: 59F1-358.61 nằm ngã nghiêng bên phải, trên lòng đường, quay ngang với chiều đường, đầu xe hướng vào mép đường chuẩn, đuôi xe hướng ngược lại. Tâm trục bánh trước cách mép đường chuẩn 1,7m và cách tâm trục bánh trước xe mô tô BS: 49P9-0554 là 3,1m. Tâm trục bánh sau cách mép đường chuẩn là 2,9m.

- Vùng va chạm giữa xe mô tô BS 49P9-0554 và xe mô tô BS: 59F1-358.61 thuộc phần đường trái theo hướng khám nghiệm. Tâm vùng va chạm cách mép đường chuẩn 1m, cách đầu vết nhớt văng là 0,3m, cách đầu vết cày của xe mô tô BS: 59F1-358.61 là 0,7m, cách tâm trục bánh trước của xe mô tô BS: 49P9-0554 và xe mô tô BS: 59F1-358.61 lần lượt là 0,6m và 2,8m.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Di Linh Trịnh Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nói trên.

Trong quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Di Linh đã tiến hành thu giữ vật chứng gồm: 01 xe mô tô BS: 49P9-0554 do Lê Đức T là chủ sở hữu và 01 chiếc xe mô tô BS 59F1-358.61 do Lê Hùng Minh chủ sở hữu, đến ngày 25/01/2017 và ngày 22/02/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Di Linh đã tiến hành giao trả đầy đủ các phương tiện nói trên cho chị Lê Thị Bích P là người đại diện hợp pháp cho gia đình nạn nhân và Trịnh Văn C.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra bị can Trịnh Văn C đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 120.000.000đ để chi phí mai táng và tổn thất tinh thần. Gia đình bị hại đã làm đơn bãi nại cho bị can. Đây là tình tiết cần xem xét giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Tại bản cáo trạng số 32a/Ctr-VKS ngày 13/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh đã truy tố bị cáo Trịnh Văn C về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 202 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo cáo trạng đã công bố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 202 và điểm b, p khoản 1, khoản 2

Điều 46, Điều 47 và Điều 60 của Bộ luật hình sự xét xử bị cáo Trịnh Văn C từ 24 đến 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 đến 60 tháng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trịnh Văn C thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và khai nhận:

Vào khoảng 20 giờ 30’ ngày 20-7-2016 tại km 96 + 350 - QL 28 thuộc tổ dân phố 11, thị trấn Di Linh, Di Linh, Lâm Đồng, bị cáo C đã có giấy phép lái xe hạng A1, trong tình trạng có sử dụng rượu bia mà hơi thở có nồng độ cồn là 0,279mlg/l khi điều khiển xe mô tô BS 59F1-385.61, lưu thông trên đường bộ theo hướng xã TC đi ra thị trấn Di Linh, phía sau chở một người tên Phạm Thị Cẩm Linh, do không chú ý quan sát phía trước, đi lấn sang phần đường trái, đã va đụng vào xe mô tô BS: 49P9-0554 do Lê Đức T điều khiển theo hướng đi ngược chiều. Hành vi của bị cáo C đã vi phạm vào khoản 8 Điều 8; Điều 9 và Điều 17 Luật Giao thông đường bộ ngày 28-11-2008 gây hậu quả nghiêm trọng, làm Lê Đức T tử vong.

Căn cứ vào biên bản, sơ đồ khám nghiệm hiện trường. Đoạn đường xảy ra tai nạn giao thông thuộc Km 96+350-QL 28 thuộc tổ dân phố 11, thị trấn Di Linh, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Chọn hướng xã TC đi Quốc lộ 20 làm hướng khám nghiệm chính. Đoạn đường xảy ra tai nạn giao thông là đường nhựa bằng phẳng, rộng 3,5m, đường thẳng, không có vạch sơn chia chiều đường, làn đường. Tất cả các số đo được T từ mép đường bên trái.

Vùng va chạm giữa xe mô tô BS 49P9 - 0554 và xe mô tô BS: 59F1-358.61 thuộc phần đường trái theo hướng khám nghiệm. Tâm vùng va chạm cách mép đường chuẩn 1m, cách đầu vết nhớt văng là 0,3m, cách đầu vết cày của xe mô tô BS: 59F1-358.61 là 0,7m, cách tâm trục bánh trước của xe mô tô BS: 49P9-0554 và xe mô tô BS: 59F1-358.61 lần lượt là 0,6m và 2,8m.

Tại biên bản kiểm tra nồng độ cồn trong hơi thở, vào hồi 21h00 ngày 20/7/2016 đối với bị cáo C, theo phiếu số 1446 là 0,279mlg/l.

Từ những chứng cứ trên thì có đủ căn cứ kết luận xét xử bị cáo Trịnh Văn C về tội “ Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự, đúng như tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh đã truy tố.

Đối với chị Phạm Thị Cẩm Linh ngồi phía sau xe mô tô của bị cáo C điều khiển sau khi tai nạn xảy ra chị Linh bị thương nhẹ và từ chối giám định và không yêu cầu bồi thường gì thêm, nên không đề cập xem xét giải quyết.

Xét T chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo C biết rõ khi điều khiển phương tiện xe mô tô là nguồn nguy hiểm cao độ, trong tình trạng có sử dụng rượu bia mà hơi thở có nồng độ cồn là 0,279mlg/l, không chú ý quan sát phía trước, đi lấn sang phần đường trái, không chấp hành đúng các quy định của Luật giao thông đường bộ, đã va đụng vào xe mô tô BS:49P9 - 0554 do Lê Đức T điều khiển theo hướng đi ngược chiều, gây tai nạn với hậu quả nghiêm trọng làm chết 01 người, đây là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại khoản 1,điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009. Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, mà còn trực tiếp xâm hại đến T mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, gây đau thương cho gia đình người bị hại.

Trong tình hình tai nạn giao thông hiện nay xảy ra ngày càng nhiều, Nhà nước và các tổ chức khác đang ra sức tuyên truyền để mọi người tự giác chấp hành Luật Giao thông nhằm hạn chế tai nạn và vi phạm khác,nhưng bị cáo đã coi thường kỷ cương pháp luật của Nhà nước, coi thường T mạng, tài sản của công dân, đã vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng. Vì vậy cần phải có mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

Song khi quyết định hình phạt có xem xét cho bị cáo ở chỗ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo C đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo và gia đình đã khắc phục hậu quả bồi thường thiệt hại cho đại diện hợp pháp của người bị hại số tiền 120.000.000 đồng, đại diện hợp pháp người bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy cần áp dụng điểm b, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 và Điều 60 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình, khi quyết định một hình phạt dưới thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định. Xét thấy cũng không cần thiết cách ly bị cáo ra ngoài xã hội chỉ cần giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú để giám sát giáo dục và phòng ngừa chung.

Về bồi thường thiệt hại: Tại phiên tòa đại diện hợp pháp của gia đình người bị hại chị Lê Thị Bích P trình bày, sau khi tai nạn xảy ra hai bên đã thỏa thuận giải quyết việc bồi thường, bị cáo đã bồi thường các khoản thiệt hại và tổn thất tinh thần cho đại diện hợp pháp gia đình bị hại số tiền 120.000.000 đồng; nay không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản nào khác, việc không yêu cầu bồi thường thêm là tự nguyện, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Công an huyện Di Linh đã tạm giữ: 01 xe mô tô BS: 49P9-0554 và 01 chiếc xe mô tô BS: 59F1-358.61. Cơ quan điều tra Công an huyện Di Linh đã ra quyết định xử lý vật chứng tiến hành trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp và không còn khiếu nại thắc mắc gì thêm, nên trong phần quyết định bản án không đề cập giải quyết.

Về án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trịnh Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Văn C phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Áp dụng khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 và Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Xử phạt: Bị cáo Trịnh Văn C 24 ( Hai mươi bốn ) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng T từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Trịnh Văn C cho UBND thị trấn Di Linh, nơi bị cáo cư trú để theo dõi giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.(Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo theo khoản 4 khoản 5 Điều 60 của Bộ luật hình sự).

Về án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trịnh Văn C phải nộp 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại, có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tỉnh Lâm Đồng để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

383
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2017/HSST ngày 17/08/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:39/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về