Bản án 391/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 391/2020/HS-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI LA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24 /09/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 310 /2020/TLST-HS ngày 21 tháng 08 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 335 /2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 08 năm 2020 đối với Bị cáo:

Họ và tên: Lê Đăng L, sinh năm 19XX; Giới tính: Nam.

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Xóm Đoài, xã Vĩnh H, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn:9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lê Đăng Th (Đã chết) và con bà: Nguyễn Thị D; Tiền án, tiền sự: Chưa.

* Nhân thân:

+ Ngày 27/02/2019, bị Công an huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa xử phạt hành chính về hành vi Xâm hại đến sức khỏe của người khác.

+ Ngày 17/11/2017, bị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 06 tháng tù về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản (Chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/01/2018).

Bị cáo ra đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 19/4/2020. Tạm giam từ ngày 22/04/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội; Số giam 1980V1/M20.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Lê Đăng L: Bà Nguyễn Thị Kim Dung,Văn phòng luật sư Nguyễn Anh, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội (Có mặt tại phiên tòa).

Bị hại:

1.Chị Nguyễn Thị Thu Hương, sinh năm 1976 (Xin vắng mặt).

NĐKHKTT và chỗ ở : Thôn Kim Thành, xã Kim Thư, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội.

2. Chị Đặng Thị Quý Anh, sinh năm 1973 (Xin vắng mặt).

NĐKHKTT: Số 11, ngõ 347, ngách 521/36/22, phường Cổ Nhuế, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Trú tại: Tổ 23, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1.Anh Hồ Minh Tuấn, sinh năm 1989 (Xin vắng mặt tại phiên tòa).

Trú tại: Phòng 1101,B11A, khu đô thị Nam Trung Yên, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

2. Anh Hoàng Đạt Công, sinh năm 1997 (Xin vắng mặt tại phiên tòa).

NĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Việt Yên, xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị án Trần Anh Tôn (Sinh năm 1990; Trú tại xã Việt Thành, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái) cùng bị án Dương Văn Tân (Sinh năm 1990; Trú tại xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa).

Bị cáo Lê Đăng L; Hoàng Đạt Công (Sinh năm 1997; Trú tại xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa) và Phạm Ngọc Sơn (Sinh năm 1991; Trú tại thị trấn Nho Quan, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) là các đối tượng không có nghề nghiệp, có quan hệ quen biết với nhau và thuê nhà sống không cố định trên địa bàn thành phố Hà Nội. Giữa tháng 06/2017, bị án Tôn thuê phòng tại khách sạn Phương Đông ở số 14, ngõ 72, phố Dương Quảng Hàm, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội để cả nhóm ở. Thời gian này, bị án Tôn nhận được điện thoại của một đối tượng tên Tân (Là người quen của bị án Tôn, hiện chưa xác định được nhân thân) hẹn bị án Tôn ra quán nước gần ngã 3 đường Nguyễn Khánh Toàn - Dương Quảng Hàm, phường quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội nói chuyện. Tại đây, đối tượng Tân giới thiệu bị án Tôn làm quen với hai người thanh niên quê ở Thái Bình (Hiện chưa xác định được nhân thân). Trong quá trình nói chuyện, hai thanh niên nói có nhu cầu mượn tài khoản Ngân hàng để nhận và rút tiền làm ăn từ nước ngoài chuyển về. Do bị án Tôn không có tài khoản Ngân hàng nên bảo có gì sẽ liên lạc lại. Sau đó, bị án Tôn về khách sạn nói với Phạm Ngọc Sơn và Dương Văn Tân thì Sơn và Văn Tân nói chỉ có Chứng minh nhân dân, không có tài khoản Ngân hàng. Bị án Tôn gọi điện thoại cho hai thanh niên quê ở Thái Bình thì được hướng dẫn chỉ cần Chứng minh nhân dân là mở được tài khoản và hẹn ngày hôm sau đi mở tài khoản để nhận tiền, đồng thời hai thành niên quê ở Thái Bình thỏa thuận nhóm của bị án Tôn sẽ được hưởng 10% trên tổng số tiền rút ra từ tài khoản đó. Lúc này, bị án Tôn cùng Văn Tân, Phạm Ngọc Sơn và bị cáo L thấy được hưởng lợi nhuận cao nên nhận thức được việc các đối tượng người Thái Bình nhờ mở tài khoản để nhận tiền là tiền do các đối tượng phạm tội mà có chứ không phải tiền do người nhà chuyển vào. Tất cả cùng đồng ý và giúp sức cho các đối tượng người Thái Bình nhiều lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản để được hưởng lợi bất chính. Bị án Trần Anh Tôn cùng bị án Dương Văn Tân và Phạm Ngọc Sơn đã giúp sức cho các đối tượng người Thái Bình thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Thu Hương số tiền 350.000.000 đồng. Ngoài ra bị án Tôn cùng bị cáo Lê Đăng L và Phạm Ngọc Sơn đã giúp sức cho các đối tượng người Thái Bình thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt của chị Đặng Thị Quý Anh cụ thể:

Ngày 22/6/2017, Phạm Ngọc Sơn báo với bị án Trần Anh Tôn là bên kia tiếp tục nhờ đi rút tiền nhưng không lấy tài khoản của bị án Tân nữa vì mỗi tài khoản chỉ dùng được một lần. Bị án Tôn hiểu là nếu tiếp tục dùng tài khoản ngân hàng của Văn, bị án Tân thì sẽ bị Công an phát hiện. Được sự đồng ý của bị án Tôn, Sơn bảo bị cáo Lê Đăng L đi mở tài khoản ngân hàng để có người chuyển tiền vào sẽ rút ra, nếu đồng ý sẽ được người ta trả công. Do cần tiền nên bị cáo L đồng ý. Sau đó, bị án L và Sơn đến Ngân hàng MBbank - Phòng giao dịch Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy. Bị cáo L vào ngân hàng mở tài khoản số: 0070105642006, mang tên bị cáo Lê Đăng L và đăng ký sử dụng số điện thoại 0964099469 để nhận thông báo biến động số dư trong tài khoản. Bị cáo L cung cấp số tài khoản cho Sơn, Sơn nhắn cho các đối tượng quê ở Thái Bình biết.

Sáng ngày 22/6/2017, chị Đặng Thị Quý Anh (Sinh năm 1973; Trú tại tổ 23, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội) nhận được điện thoại từ số 2232817844 đến số máy cố định của gia đình là 02437525098, thông báo chị Quý Anh đang nợ tiền cước điện thoại là 8.930.000 đồng. Chị Quý Anh nói không nợ tiền cước điện thoại thì đối tượng này nối máy cho chị Quý Anh gặp một đối tượng khác tự xưng làm tại Công an tỉnh Quảng Ninh (Các đối tượng này hiện chưa xác định được nhân thân). Đối tượng này nói giấy tờ tùy thân của chị Quý Anh có liên quan đến đối tượng buôn bán ma túy đã bị bắt, yêu cầu chị Quý Anh kê khai tất cả các tài khoản ngân hàng và cung cấp số điện thoại di động của chị Quý Anh là 0912493038 để liên lạc. Sau đó đối tượng sử dụng các số điện thoại 04276356500, 08262573948, 08907012256, +84622513356 và 08482111459 liên tục gọi đến số điện thoại di động của chị Quý Anh yêu cầu chị Quý Anh chuyển toàn bộ tiền có trong tài khoản vào số tài khoản 0070105642006, chủ tài khoản là bị cáo Lê Đăng L và tài khoản số: 3903205164103, chủ tài khoản là Trương Công Dũng (Sinh năm 1979; Trú tại xã Hải Sơn, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị) để điều tra. Các đối tượng đe dọa nếu không chuyển tiền sẽ bị bắt tạm giam chị Quý Anh và hứa sẽ hoàn trả toàn bộ số tiền sau 24 giờ. Do lo sợ và tin các đối tượng là Công an nên chị Quý Anh đã tới Ngân hàng MB bank - Chi nhánh Hoàng Quốc Việt, thành phố Hà Nội chuyển số tiền 800.000.000 đồng từ sổ tiết kiệm của mình vào tài khoản của bị cáo Lê Đăng L. Sau đó, chị Quý Anh tiếp tục ra Ngân hàng Agribank - Chi nhánh Hà Nội chuyển số tiền 400.000.000 đồng từ sổ tiết kiệm của mình vào tài khoản của Trương Công Dũng.

Sau khi bị cáo Lê Đăng L nhận được tin nhắn từ Ngân hàng MB báo có số tiền 800.000.000 đồng do chị Đặng Thị Quý Anh chuyển vào tài khoản. Bị cáo L báo cho Sơn biết rồi cả hai đi ra Ngân hàng rút toàn bộ số tiền trên rồi ra thuê xe taxi đi. Đi được một đoạn, Sơn bảo lái xe dừng lại đón một người đàn ông (Hiện chưa xác định được nhân thân) xách một chiếc cặp màu đen. Trên xe, Sơn đưa toàn bộ 800.000.000 đồng cho người này, đối tượng này kiểm tra xong rồi đưa cho Sơn 80.000.000 đồng. Sơn và bị cáo L cầm tiền rồi xuống xe thuê taxi khác về khách sạn Hương Đông đưa tiền cho bị án Tôn. Tôn chia cho Sơn 5.000.000 đồng, chia cho bị cáo L 2.000.000 đồng; Số tiền còn lại bị án Tôn giữ để chi tiêu sinh hoạt chung cho cả nhóm.

Sau khi phạm tội bị cáo Lê Đăng L đã bỏ trốn. Ngày 19/4/2020 bị cáo L đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đầu thú và khai nhận hành vi phạm như trên; Lời khai của Bị cáo phù hợp với lời khai của các người Bị hại, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

* Tại công văn số: 688/MB-TDH ngày 29/6/2017 của Ngân hàng Quân đội cung cấp tờ khai mở tài khoản, bản sao chứng minh nhân dân, sao kê giao dịch của tài khoản 0070105642006 chủ tài khoản là bị cáo Lê Đăng L mở ngày 22/6/2017 có số điện thoại di động 0964099469 và cũng trong ngày 22/6/2017 chị Đặng Thị Quý Anh đã chuyển vào tài khoản trên là 800.000.000 đồng, bị cáo L đã rút toàn bộ số tiền trên cùng ngày.

* Tại công văn số: 1024/QLRR-BIDV.THN ngày 18/7/2017 của Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Tây Hà Nội cung cấp tờ khai mở tài khoản, bản sao chứng minh nhân dân, sao kê giao dịch của tài khoản số:26010000945647 chủ tài khoản là Dương Văn Tân mở ngày 16/6/2017 số điện thoại 01684146997 và cũng trong ngày 16/6/2017 chị Nguyễn Thị Thu Hương đã nộp tiền vào tài khoản trên là 350.000.000 đồng, Tân đã rút toàn bộ số tiền trên cùng ngày.

* Tại công văn số: 637/NHNoQT-KTKSNB ngày 29/6/2017 của Ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh tỉnh Quảng Trị cung cấp tờ khai mở tài khoản, bản sao chứng minh nhân dân, sao kê giao dịch của tài khoản số: 3903205164103 chủ tài khoản là Trương Công Dũng mở ngày 25/4/2017 số điện thoại 0942846919. Ngày 22/6/2017, chị Nguyễn Thị Vệ đã nộp tiền mặt 150.000.000 đồng vào tài khoản trên tại Agribank quận Cầu Giấy; Chị Đặng Thị Quý Anh đã nộp tiền mặt 400.000.000 đồng tại Agribank thành phố Hà Nội. Cũng trong ngày Trương Công Dũng đã rút số tiền 25.000.000 đồng tại ATM của Agribank huyện Cao Lộc, Lạng Sơn và rút 525.000.000 đồng tại Agribank tỉnh Lạng Sơn.

* Tại công văn số: 2653/CVT-TNTK ngày 06/9/2017 của Cục Viễn thông Bộ thông tin và truyền thông xác định: Căn cứ Quy hoạch kho số viễn thông ban hành kèm theo Thông tư số: 22/2014/TT-BTTTT ngày 22/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, các số điện thoại: “9720242355; 622513358;2232817844; +0333798100; 04276356500; 08262573948; 08907012256;

+842322205393; +84622513356; 08482111459; 08248493936; 06501349609;

0622513356; 01471592102; 08663633489” không phù hợp với cấu trúc số điện thoại của Việt Nam. Qua rà soát dữ liệu do Liên minh Viễn thông Quốc tế - ITU công bố về quy hoạch kho số của các nước thì các số điện thoại nêu trên không trùng với cấu trúc số của bất kỳ quốc gia nào.

Tại bản án sơ thẩm số: 409/2019/HS-ST ngày 10/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt bị án Trần Anh Tôn 14 năm tù và bị án Dương Văn Tân 10 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Trần Anh Tôn và Dương Văn Tân phải liên đới bồi thường cho chị Nguyễn Thị Thu Hương số tiền 350.000.000 đồng, chia kỷ phần mỗi Bị cáo phải bồi thường 175.000.000 đồng; Buộc bị án Trần Anh Tôn phải bồi thường cho chị Đặng Thị Quý Anh số tiền là: 800.000.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số: 299/CT-VKS HN-P2 ngày 10/08/2020 Viện kiểm sát nhân thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Lê Đăng L về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 174 của Bộ luật hình sự;

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, giữ nguyên quyết định truy tố, các Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a, khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lê Đăng L: Từ 12 đến 13 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản “ Trách nhiệm dân sự:

Đã giải quyết trong Bản án số: 409/2019/HS-ST ngày 10/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Vật chứng: Không.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Lê Đăng L:

Đồng nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, nhưng đề nghị áp dụng hình phạt giảm nhẹ hơn mức án cho Bị cáo mà Viện kiểm sát đề nghị vì bị cáo Lê Đăng L đầu thú, thành khẩn khai báo, nên áp dụng điểm s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và tội danh của Bị cáo: Lời khai nhận của Bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng tháng 6/2017, bị án Trần Anh Tôn, bị cáo Lê Đăng L, bị án Dương Văn Tân, Phạm Ngọc Sơn, Hoàng Đạt Công không có nghề nghiệp, thuê phòng ở chung tại khách sạn Phương Đông ở số 14, ngõ 72, Dương Quảng Hàm, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Thời gian này, bị án Tôn nhận được điện thoại của đối tượng quen biết ngoài xã hội tên là Tân giới thiệu gặp các đối tượng người Thái Bình (Chưa rõ lai lịch) để nhờ gửi tiền vào tài khoản để rút hộ và được trả tiền công. Bị án Tôn và bị cáo L nhận thức được hành vi trên là không đúng pháp luật, giúp cho các đối tượng người Thái Bình thực hiện hành vi chiếm đoạt được tiền của người khác. Do ham lợi nên bị cáo Lê Đăng L đã cùng các bị án giúp sức cho các đối tượng người Thái Bình sử dụng thủ đoạn gọi điện thoại cho Người bị hại nói là liên quan đến tội phạm, đe dọa bắt ép phải gửi tiền vào các tài khoản do nhóm của bị cáo L cung cấp. Ngày 22/6/2017, Bị cáo Lê Đăng L cùng các bị án đã giúp sức cho các đối tượng người Thái Bình thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt của chị Đặng Thị Quý Anh số tiền 800.000.000 đồng và được chia 80.000.000 đồng, riêng bị cáo Lê Đăng L được hưởng lợi 2.000.000 đồng.

Điều 174. Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

.............

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

.............

Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Đăng L đã phạm vào tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 174 của Bộ luật Hình sự;

Hành vi của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bằng hành vi gian dối ngay từ đầu để chiếm đoạt tài sản là tiền của chị Đặng Thị Quý Anh, tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 800.000.000 đồng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, gây bức xúc cho dư luận.

Bản thân Bị cáo có nhân thân xấu, có nhận thức pháp luật nhưng chưa có ý thức tu dưỡng nên đã phạm tội. Vì vậy cần phải có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với Bị cáo.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Bị cáo: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, ra đầu thú theo điểm s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật hình sự Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[2] Căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự; Căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; Căn cứ nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù cách ly Bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới đủ tác dụng răn đe giáo dục riêng Bị cáo và phòng ngừa chung.

Trong vụ án này, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã làm rõ Hoàng Công Đạt được Phạm Ngọc Sơn đưa cho 01 chứng minh thư mang tên Hồ Minh Tuấn để thay ảnh của Công Đạt vào rồi dùng chứng minh thư này đi mở tài khoản tại ngân hàng SHB chi nhánh Nguyễn Khánh Toàn, tuy nhiên Công chưa sử dụng tài khoản này để cho các đối tượng nhận và rút tiền do vậy Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Công Đạt.

Đối với Phạm Ngọc Sơn có hành vi đi cùng bị án Dương Văn Tân và bị cáo Lê Đăng L đến các Ngân hàng mở tài khoản để nhận và rút tiền hộ các đối tượng người Thái Bình. Hiện Phạm Ngọc Sơn không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra chưa làm rõ được ý thức chủ quan của Sơn đối với các khoản tiền chuyển vào tài khoản của bị án Văn Tân và bị cáo L. Kết quả điều tra chưa đủ căn cứ để khởi tố bị can đối với Phạm Ngọc Sơn về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, Cơ quan điều tra đã quyết định tách hành vi liên quan của Phạm Ngọc Sơn để tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Quá trình điều tra làm rõ đối tượng Trương Quốc Dũng (Sinh năm 1979; Trú tại xã Hải Sơn, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị) đã cùng với đối tượng Trần quốc Dũng (Sinh năm 1974, trú tại phường Tân Thời Mới, huyện Hooc Môn, thành phố Hồ Chí Minh) cùng nhau mở nhiều tài khoản để nhận tiền giúp cho một người phụ nữ (Không rõ tên tuổi, địa chỉ) trong đó có số tiền 550.000.000 đồng do các Bị hại Đặng Thị Quý Anh và Nguyễn Thị Vệ nộp vào tài khoản của Công Dũng sau đó Công Dũng rút ra đưa cho người phụ nữ trên. Hiện các đối tượng Trương Công Dũng và Trần Quốc Dũng không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra chưa làm rõ được ý thức chủ quan của Công Dũng và Quốc Dũng đối với khoản tiền của chị Đặng Thị Quý Anh và chị Nguyễn Thị Vệ chuyển khoản vào tài khoản của Công Dũng. Kết quả điều tra chưa đủ căn cứ để khởi tố bị can đối với Trương Công Dũng và Trần Quốc Dũng về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Do đó, Cơ quan điều tra đã quyết định tách hành vi liên quan của Trương Công Dũng và Trần Quốc Dũng để tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với đối tượng tên Tân và các đối tượng người Thái Bình thông qua nhóm của bị án Trần Anh Tôn để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Quá trình điều tra, các bị án Trần Anh Tôn, Dương Văn Tân và bị cáo Lê Đăng L khai không biết rõ nhân thân, lai lịch các đối tượng trên, chỉ liên lạc qua điện thoại số 0904161271 của đối tượng tên Tân. Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng tên Tân và các đối tượng người Thái Bình nên đã quyết định tách tài liệu liên quan đến hành vi của các đối tượng trên để tiếp tục xác minh, khi nào xác định rõ sẽ xử lý sau.

Về dân sự:

Đã giải quyết tại Bản án sơ thẩm số: 409/2019/HS-ST ngày 10/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo không có khả năng về tài chính và phải chấp hành hình phạt tù nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo.

[4] Về vật chứng vụ án:

Các tài liệu nào liên quan đến việc phạm tội của Bị cáo thì được lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

[5] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[6] Các cơ quan tiến hành tố tụng của thành phố Hà Nội thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền và các quy định khác về điều tra, truy tố. Kết luận điều tra của Công an thành phố Hà Nội, Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, áp dụng với Bị cáo là đúng, tương xứng với hành vi phạm tội của Bị cáo và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Đăng L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Căn cứ điểm a, khoản 4 Điều 174. Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lê Đăng L: 13 (Mười ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 19/04/2020.

Trách nhiệm dân sự:

Đã giải quyết tại Bản án sơ thẩm số: 409/2019/HS-ST ngày 10/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Về xử lý vật chứng:

Cơ quan điều tra đã lưu trữ trong hồ sơ vụ án.

Đã giải quyết tại Bản án sơ thẩm số: 409/2019/HS-ST ngày 10/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Về án phí:

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Lê Văn L phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

Quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo Lê Đăng L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Các Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao Bản án hoặc niêm yết hợp lệ./.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao Bản án hoặc được niêm yết hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 391/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:391/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về