TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 385/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/10/2020 VỀ LY HÔN GIỮA BÀ D VÀ ÔNG T
Ngày 21 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 294/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2020 về “Ly hôn” theo Quyết định Đưa vụ án ra xét xử số 190/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 9 năm 2020 và Quyết định Hoãn phiên tòa số 159/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Bà T T D, sinh ngày 18-10-1989 (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 19-10-2020) Nơi cư trú: Tổ 02, ấp T T, xã T P, huyện C T, tỉnh An Giang.
2.Bị đơn: Ông P V T, sinh năm 1980 (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ 11, ấp V T, xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại Đơn khởi kiện xin ly hôn, Bản tự khai ngày 10-7-2020 và Biên bản hòa giải ngày 28-8-2020, nguyên đơn bà T T D trình bày:
+Về hôn nhân: Bà và ông P V T kết hôn vào năm 2005, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang số 30/2017 ngày 07-7-2017. Sau cưới vợ chồng cất nhà ra sống riêng bên vợ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn do ông T cờ bạc, bà nhiều lần khuyên bảo nhưng ông T không sửa đổi. Cách nay 02 năm, bà bỏ về nhà thứ 2 của vợ chồng sinh sống, vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nay bà nhận thấy không còn tình cảm với ông T, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin ly hôn với ông P V T.
+Về con chung: Có 02 con chung tên P T N N, sinh ngày 19-6-2006 và P Q H, sinh ngày 08-8-2011. Hiện bà đang nuôi con. Nếu ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con.
+Về cấp dưỡng nuôi con: Bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.
+Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại Biên bản hòa giải ngày 28-8-2020, bị đơn ông P V T trình bày: Ông thống nhất với lời trình bày của bà D về điều kiện kết hôn, thời gian kết hôn, thời gian chung sống, thời gian sống ly thân.
+Về hôn nhân: Ông và bà T T D kết hôn vào năm 2005, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang số 30/2017 ngày 07-7-2017. Sau cưới vợ chồng cất nhà ra sống riêng bên vợ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn do ông cờ bạc. Cách nay 02 năm, bà D bỏ về nhà thứ 2 của vợ chồng sinh sống, vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nay bà D xin ly hôn ông, ông nhận thấy còn thương vợ, thương con, không muốn con không cha nên không đồng ý ly hôn.
+Về con chung: Có 02 con chung tên P T N N, sinh ngày 19-6-2006 và P Q H, sinh ngày 08-8-2011. Hiện bà D đang nuôi con. Nếu Tòa án xét xử cho ly hôn, ông cũng có yêu cầu được nuôi con.
+Về cấp dưỡng nuôi con: Nếu ông nuôi con, ông không yêu cầu bà D cấp dưỡng nuôi con.
+Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 03-9-2020, cháu P T N N trình bày: Cháu tên P T N N, cháu sinh ngày 19-6-2006, cháu đang sống với mẹ, cháu có đi học, cháu học lớp 9, trường Trung học cơ sở V B, xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang. Nếu cha mẹ ly hôn cháu có nguyện vọng sống với mẹ.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 03-9-2020, cháu P Q H trình bày: Cháu tên P Q H, cháu sinh ngày 08-8-2011, cháu đang sống với mẹ, cháu có đi học, cháu học lớp 4, trường Tiểu học B V B, xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang. Nếu cha mẹ ly hôn cháu có nguyện vọng sống với mẹ.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang phát biểu quan điểm như sau:
1/Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng được pháp luật quy định tại Bộ Luật Tố tụng Dân sự.
2/Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về con chung tiếp tục ổn định cho bà D nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với nguyên đơn bà T T D, bị đơn ông P V T, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa; nguyên đơn bà D có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông T vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo thủ tục chung đối với nguyên đơn bà D và bị đơn ông T.
[2] Về hôn nhân: Bà T T D và ông P V T kết hôn vào năm 2005, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang số 30/2017 ngày 07-7-2017 theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên hôn nhân này là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Bà D có yêu cầu ly hôn. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tổ chức hòa giải để hàn gắn lại tình cảm giữa bà D và ông T; bà D cương quyết ly hôn, ông T không muốn ly hôn dẫn đến phát sinh tranh chấp.
Xét thấy: Từ năm 2010, ông T cờ bạc dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn về tiền bạc. Cách nay 2 năm bà D và ông T sống ly thân cho đến nay. Từ khi sống ly thân đến nay bà D và ông T không có thiện chí hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Điều này cho thấy mâu thuẫn giữa bà D và ông T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Hội đồng xét xử xét thấy nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là bà D được ly hôn với ông T là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về con chung: Bà T T D và ông P V T có 02 con chung. Cả bà D và ông T đều có yêu cầu nuôi con khi ly hôn.
Xét thấy: Cháu N và cháu H hiện đang sống với bà D, bà D nuôi hai cháu chu đáo, hai cháu được đi học, hai cháu đã trên 7 tuổi và có nguyện vọng sống với bà D. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Vì vậy, để không làm thay đổi cuộc sống cũng như sự phát triển tâm sinh lý của hai cháu; Hội đồng xét xử xét thấy nên để cho bà D được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung là phù hợp.
Bà T T D và các thành viên trong gia đình bà D không được cản trở ông P V T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Ông P V T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà D có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của ông T theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T T D không yêu cầu ông P V T cấp dưỡng nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T T D và ông P V T trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, nguyên đơn bà T T D phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0007106 ngày 29-7-2020 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
[7] Về quyền kháng cáo: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự. Nguyên đơn bà T T D, bị đơn ông P V T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Các Điều 227, 228, 266, 271 và 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự;
Các Điều 9, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Xử:
[1] Về hôn nhân: Bà T T D được ly hôn với ông P V T.
Giấy chứng nhận kết hôn số 30/2017 ngày 07-7-2017 của Ủy ban nhân dân xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.
[2] Về con chung: Bà T T D được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung tên P T N N, sinh ngày 19-6-2006 và P Q H, sinh ngày 08-8-2011.
Bà T T D và các thành viên trong gia đình bà D không được cản trở ông P V T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Ông P V T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà D có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của ông T theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3] Về án phí: Nguyên đơn bà T T D phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0007106 ngày 29-7-2020 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
[4] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn bà T T D, bị đơn ông P V T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 385/2020/HNGĐ-ST ngày 21/10/2020 về ly hôn giữa bà D và ông T
Số hiệu: | 385/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/10/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về