TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 384/2020/HS-ST NGÀY 24/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân TP Vinh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 383/2020/TLST-HS ngày 05/8/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 541/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Ngô Đức T - sinh ngày 20/9/1992 tại huyện Nghĩa Đ, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: khối Tân Đồng, TT Nghĩa Đ, huyện Nghĩa Đ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: V Nam; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; con ông: Ngô Đức V và bà Nguyễn Thị Hồng; vợ con: chưa có; Anh chị em ruột có 02 người bị cáo là con thứ hai trong gia đình.Tiền án, Tiền sự; Nhân thân: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/6/2020 cho đến nay – có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 20 giờ 15 phút ngày 31/5/2020 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Ngô Đức T dùng máy điện thoại di động nhãn hiệu samsung Galaxy A8 star của mình gọi điện thoại cho một người đàn ông (không rõ lai lịch địa chỉ) hỏi mua 01 gói ma túy với giá 300.000đ để sử dụng. Người đàn ông đó đồng ý và hẹn gặp T ở khu vực đường Nguyễn Thái Học, TP Vinh để nhận tiền và nhận ma túy. Sau đó T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu đỏ đen BKS 37B2 – 352.17 đi từ xã Hưng Lộc, TP Vinh đến điểm hẹn. Tại đây T đưa cho người đàn ông đó 300.000đ, người đàn ông đó cầm tiền xong nói T đứng chờ và sẽ gọi điện thoại lại cho T để lấy ma túy. Khoảng 10 phút sau người đàn ông đó gọi điện thoại lại cho T nói đi đến đoạn đường sắt ở đường Nguyễn Trường Tộ thuộc phường Đông Vĩnh, TP Vinh để lấy ma túy. T điều khiển xe mô tô đi đến điểm hẹn gặp người đàn ông đó, khi gặp nhau người đàn ông đó chỉ cho T thấy 01 (một) gói ma túy đâ để dưới đất cách vị trí T đứng khoảng 1,5m rồi bỏ đi. T đi lại cầm gói ma túy đó cất dấu vào trong túi quần bên phải đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi đến nhà bạn là Phan V Nam ở khối 8,phường Cửa Nam, TP Vinh để rủ Nam đi cùng sử dụng ma túy. Vào lúc 22 giờ 10 phút ngày 31/5/2020 khi T điều khiển xe mô tô đến số 38 đường Phạm Ngũ Lão, thuộc khối 8 phường Cửa Nam, TP Vinh thì bị tổ công tác thuộc Công an phường Lê Lợi, TP Vinh kiểm tra phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trong túi quần bên phải mà T đang mặc 01 (một) gói potilen màu trắng bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu samsung Galaxy A8 star, 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu đỏ đen BKS 37B2 – 352.17. Người cùng tang vật được dẫn giải về trụ sở Công an phường Lê Lợi, TP Vinh lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại ngày 01/6/2020 và Kết luận giám định số 747/KL-PC09(MT) ngày 04/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Ngô Đức T gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine) có tổng khối lượng 0,250gam.
Tại bản cáo trạng số 418/VKS-HS ngày 04/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Ngô Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Ngô Đức T mức án từ 12 – 15 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo. Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động thu giữ của bị cáo.
Bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mà không có ý kiến tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung:
2.1. Xét hành vi phạm tội: Xét lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, vật chứng thu giữ và các T liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ,được tranh tụng tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 22 giờ 10 phút ngày 31/5/2020 tại đường Phạm Ngũ Lão thuộc khối 8,phường Cửa Nam, TP Vinh, tỉnh Nghệ An, Ngô Đức T có hành vi tàng trữ trái phép 0,250 gam ma túy (Methamphetamine) với mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Lê Lợi, TP Vinh bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
2.2. Xét tính chất vụ án, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tội phạm thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi cất dấu ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện thể hiện ý thức bản thân kém và coi thường pháp luật, vì vậy, cần xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.Tuy nhiên cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo có thời gian đi nghĩa vụ quân sự nên tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy xử phạt bị cáo trong khung hình phạt như đề nghị của vị đại diệnViện kiểm sát là phù hợp.
2.3 Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội phạm này ngoài hình phạt chính còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định và không có T sản nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.
2.4. Về vật chứng: khối lượng ma túy (Methamphetamine) thu giữ của bị cáo là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy. Điện thoại di động SamSung Galaxy A8 star thu giữ của bị cáo là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.
Đối với xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu đỏ đen BKS 37B2 – 352.17 thu giữ của bị cáo, qua xác minh là xe của bà Nguyễn Thị Hồng (mẹ đẻ của bị cáo), Bà Hồng không biết việc bị cáo T sử dụng xe mô tô nói trên để đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra Công an TP Vinh đã trả lại cho bà Hồng nên miễn xét.
Đối với nam thanh niên đã bán ma túy cho Ngô Đức T do không rõ lai lịch địa chỉ cụ tể Cơ quan điều tra Công an TP.Vinh đang tiếp tục điều tra, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.
Đối với anh Phan V Nam, trú tại khối 8,phường Cửa Nam, TP Vinh là người được T rủ đi sử dụng ma túy, nhưng lúc đó Nam không biết bị cáo T đang cất dấu ma túy trong người nên không có căn cứ để xử lý.
[3] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Ngô Đức T 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 01/6/2020.
Căn cứ điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong có chứa ma túy (Methamphetanine), Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước Điện thoại di động SamSung Galaxy A8 star. Toàn bộ vật chứng hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vinh theo phiếu nhập kho số NK 0429 ngày 07/8/2020 Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Ngô Đức T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Căn cứ các điều 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 384/2020/HS-ST ngày 24/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 384/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về