TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 382/2020/HSST NGÀY 01/12/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 01/12/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 376/2020/TLST-HS ngày 02/11/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 397/2020/QĐXXST-HS ngày 16/11/2020, đối với bị cáo:
NGUYỄN THỊ THƯ L Sinh ngày: 20/7/1990; tại: Đắk Lắk.
Nơi cư trú: Thôn X, xã H, thành phố B, Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo; Thiên chúa giáo; con ông Nguyễn Thành L, sinh năm 1963 và con bà Nguyễn Thị Thanh V, sinh năm 1968; có chồng là Trần H, sinh năm 1984 và 05 con nhỏ, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2019.
- Tiền án: 01 tiền án. Ngày 28/8/2019, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm. Ngày 03/10/20219, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo (Quyết định số 146/2019/QĐ-CA).
- Tiền sự: Không.
Hiện bị cáo đang tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Ngô Thị L. Sinh năm 1968.
Địa chỉ: Thôn X, xã H, thành phố B, Đắk Lắk; có mặt.
2. Bà Trương Thị Kim L1. Sinh năm 1965.
Địa chỉ: Thôn A, xã H, thành phố B, Đắk Lắk; vắng mặt.
3. Bà Huỳnh Thị Thu V. Sinh năm 1978.
Địa chỉ: Tổ dân phố Y, phường T, thành phố B, Đắk Lắk; vắng mặt.
4. Bà Bùi Anh T. Sinh năm 1966.
Địa chỉ: Thôn Z, thị trấn E, huyện C, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
- Người chứng kiến:
Ông Đinh Văn S. Sinh năm 1971.
Địa chỉ: Thôn X, xã H, thành phố B, Đắk Lắk; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo Nguyễn Thị Thư L bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 21/6/2020, bà Ngô Thị L gọi điện thoại cho Trương Thị Kim L1 và Huỳnh Thị T đến nhà bà L chơi thì L1 và V đồng ý. Khi đến nhà bà L chơi, L1 chở theo bạn là Bùi Anh T. Sau đó, Nguyễn Thị Thư L cũng đến nhà bà L chơi.
Quá trình nói chuyện, bà L gợi ý cho L1, T, V và L đánh bạc thì mọi người đồng ý. Bà L đem 02 bộ bài Tú Lơ Khơ loại 52 lá cho L1, T, V và L đánh bạc dưới hình thức đánh phỏm được thua bằng tiền.
Quy ước mỗi người đậu chớn số tiền 500.000 đồng/01 vòng, mỗi ván người về nhất thắng hết, người về nhì thua 10.000 đồng, người về ba thua 20.000 đồng và người về chót thua 30.000 đồng. Do bà L là người cung cấp nhà và bài để đánh bạc nên mỗi vòng đậu chớn thì mỗi người tham gia đánh bạc tự nguyện nộp cho bà Lầu số tiền 20.000 đồng và trong quá trình đánh bạc nếu ai có bài Ù thì phải đưa cho bà Lầu số tiền 10.000 đồng tiền xâu. Khi đánh bạc, bị cáo L mang theo số tiền 1.380.000 đồng; chị L1 mang theo số tiền 440.000 đồng; chị V mang theo số tiền 1.240.000 đồng; chị T mang theo số tiền 1.320.000 đồng, toàn bộ số tiền trên đến sử dụng để tham gia đánh bạc. Khi bắt đầu đánh bạc mỗi người đưa cho bà L số tiền xâu là 20.000 đồng/01 người, rồi chị L1 mượn hết số tiền xâu 80.000 đồng từ bà L cho đủ chớn. L cùng chị V, chị T và chị L1 đánh bạc liên tục từ 13 giờ 30 phút đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày thì bị lực lượng Công an xã Hoà Phú vào kiểm tra phát hiện hành vi vi phạm của các đối tượng trên, tạm giữ trên người Bùi Anh T số tiền 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng) và trên người của Huỳnh Thị Thu V số tiền 720.000 đồng (Bảy trăm hai mươi nghìn đồng), thu giữ tại chiếu bạc 02 bộ bài Tây loại 52 lá và số tiền 2.860.000 đồng (Hai triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng), cụ thể: Tại tụ của L có số tiền 1.180.000 đồng (trong đó 320.000 đồng là số tiền đậu chớn còn lại, 860.000 đồng là tiền L mang theo để trên chiếu bạc); tại tụ của T có số tiền 900.000 đồng; tại tụ của L1 có số tiền 120.000 đồng và tại tụ của V có số tiền 660.000 đồng.
Đồ vật, tài liệu bị tạm giữ:
- Số tiền: 2.860.000 đồng (Hai triệu tám trăm sáu mươi ngàn đồng) thu giữ trên chiếu bạc:
- Số tiền 720.000 đồng (Bảy trăm hai mươi nghìn đồng) tạm giữ trên người của Huỳnh Thị Thu V:
- Số tiền 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng) tạm giữ trên người của Bùi Anh T:
- 02 (Hai) bộ bài Tây, loại 52 quân bài/01 bộ, đã qua sử dụng.
Cách thức đánh bạc như sau: Khi vào đánh bạc, một người ngẫu nhiên chia bài, sau đó ai về nhất sẽ được chia bài ván tiếp theo, lấy bộ bài Tú lơ khơ (loại 52 lá) chia lần lượt thành 04 phần cho 04 người, trong đó tụ của người chia bài có 10 lá bài, 03 tụ còn lại mỗi tụ được chia 09 lá bài, 15 lá bài còn lại được úp chung thành một tụ đặt giữa sòng bài để cho các con bạc bốc bài trong quá trình đánh bạc. Chia bài xong, người thắng nhất sẽ đánh trước tiên, mỗi lần chỉ đánh 01(một) lá bài, nếu người ngồi liền kề bên theo chiều đánh lấy (ăn) được lá bài này để cùng các lá bài trên tay mình tạo thành phỏm thì người này không được bốc bài trên sòng mà phải đánh đi một lá bài khác đang cầm trên tay. Lá bài bị lấy (ăn) thì người đánh phải chung tiền cho người ăn. Nếu không lấy được lá bài của người ngồi trước đã đánh thì người ngồi kề bên phải bốc một lá bài trên cùng trong tụ bài chung đặt ở giữa sòng và đánh một lá bài đi, làm sao trên tay của mỗi người chơi luôn có 09 lá bài. Cứ tiếp tục đánh bài như vậy cho đến khi ván bài kết thúc, tức là khi có bài Ù hoặc khi mỗi người đánh đến lá bài thứ tư thì hạ phỏm, tính điểm và tính tiền thắng, thua để chung cho nhau. Quy ước: Một phỏm gồm từ 03 đến 04 lá bài cùng loại như: 03 lá 9, 04 lá 9 hoặc 03 lá bài trở lên theo thứ tự tăng dần cùng một chất Rô, Cơ, Chuồn, Bích. Ví dụ: Sảnh Cơ 3, 4, 5; sảnh chuồn 10, J, Q, K;...Bài ù là bài có 9 lá trở lên tạo thành phỏm. Ai đánh bài mà bị người ngồi kề bên lấy 03 lá bài liên tiếp để tạo thành bài Ù thì phải đền bài, nghĩa là phải chung tiền cho 02 người còn lại. Cách tính điểm bài như sau: Từ quân 2 đến 10 được gọi và tính điểm theo số hiển thị trên quân bài, các quân J (gọi là Bồi), Q (gọi là Đầm), K (gọi là Già), A (gọi là Xì). Các quân bài từ J, Q, K được tính 10 điểm, quân A được tính 1. Có 04 chất gồm: Bích (ký hiệu là ª), Chuồn (ký hiệu là §), Rô (ký hiệu là¨), Cơ (ký hiệu là ©); Bài nào có tổng số điểm của những lá bài không tạo thành phỏm thấp nhất thì về nhất và thắng hết 03 người còn lại. Thua nhì tức là có tổng số điểm của những lá bài không tạo thành phỏm thấp thứ hai. Thua ba tức là có tổng điểm của những lá bài nêu trên thấp thứ 3 và thua chót nghĩa là bài có tổng điểm của những lá bài không tạo thành phỏm cao nhất. Bài không có phỏm gọi là bài "Cháy". Ai có bài Ù thì thắng 03 người còn lại.
Quá trình xác minh xác định: Nguyễn Thị Thư L là người đang chấp hành án treo về tội Đánh bạc nên Công an xã Hoà Phú đã chuyển toàn bộ hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột để xử lý theo thẩm quyền.
Tại bản cáo trạng số 377/CT-VKS ngày 02/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thư L về tội “Đánh bạc”, theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như cáo trạng và sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:
+ Xử phạt: Nguyễn Thị Thư L từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù.
Tổng hợp hình phạt 02 năm 09 tháng tù của Bản án số: 52/2019/HSST ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 (hai) bản án là từ 03 (ba) năm 03 (tháng) đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.
- Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự:
- Đề nghị tịch thu, sung công quỹ nhà nước đối với số tiền 2.860.000 đồng (Hai triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng) tạm giữ trên chiếu bạc; số tiền 720.000 đồng (Bảy trăm hai mươi nghìn đồng) tạm giữ trên người của Huỳnh Thị Thu V và số tiền 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng) tạm giữ trên người của Bùi Anh T là tiền dùng vào mục đích đánh bạc.
- Tịch thu, tiêu hủy đối với 02 (Hai) bộ bài tây, loại 52 quân bài/01 bộ, đã qua sử dụng là công cụ bị cáo sử dụng để đánh bạc.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ diễn biến hành vi phạm tội như trong bản Cáo trạng; bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với vật chứng; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi bị cáo đã thực hiện nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 21/6/2020 tại nhà của bà Ngô Thị L, thôn 1, xã Hòa Phú, thành phố Buôn Ma Thuột, Nguyễn Thị Thư L cùng Bùi Anh T, Huỳnh Thị Thu V và Trương Thị Kim L1 đang đánh bạc dưới hình thức đánh phỏm được thua bằng tiền thì bị Cơ quan công an xã Hòa Phú phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc: 2.860.000 đồng (Hai triệu tám trăm sáu mươi ngàn đồng). Tạm giữ số tiền 720.000 đồng (Bảy trăm hai mươi ngàn đồng) trên người của Huỳnh Thị Thu V và số tiền 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng) trên người của Bùi Anh T là tiền dùng vào mục đích đánh bạc.
Mặc dù số tiền bị cáo L và các đối tượng T, V và L1 dùng vào việc đánh bạc là 4.380.000 đồng, nhưng ngày 28/8/2019, bị cáo L đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm. Ngày 03/10/20219, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo (Quyết định số 146/2019/QĐ-CA); vì vậy, hành vi của bị cáo đã phạm tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
Do đó,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố bị cáo về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Điều 321 Bộ luật Hình sự quy định:
''1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức, biết rõ hành vi đánh bạc trái phép là vi phạm pháp luật và sẽ bị pháp luật trừng trị. Nhưng do ý thức coi thường pháp luật, muốn có tiền một cách nhanh chóng mà không phải lao động, vì vậy bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội của mình. Hành vi của bị cáo không những trực tiếp xâm phạm đến an toàn xã hội, trật tự công cộng mà còn gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Do đó, đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội.
Bị cáo đang chấp hành hình phạt 02 năm 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm, theo Quyết định thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo số 146/2019/QĐ-CA ngày 28/8/2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Lẽ ra, bị cáo phải tự sửa chữa, cải tạo bản thân trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội; nhưng bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc. Điều này thể sự coi thường pháp luật một cách cao độ của bị cáo. Vì vậy, HĐXX xét thấy cần áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo; cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo; đồng thời đủ sức răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đều đã thành khẩn khai báo và thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Từ những xem xét, đánh giá, nhận định trên, xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy phù hợp, cần chấp nhận.
- Trong vụ án này, đối với hành vi của Huỳnh Thị Thu V, Bùi Anh T và Trương Thị Kim L1 cùng tham gia đánh bạc với bị cáo Nguyễn Thị Thư L vào ngày 21/6/2020, nhưng Huỳnh Thị Thu V, Bùi Anh T và Trương Thị Kim L1 đều chưa có tiền án, tiền sự về hành vi Đánh bạc, Gá bạc, Tổ chức đánh bạc nên không cấu thành tội phạm mà cấu thành vi phạm hành chính. Do vậy, Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Huỳnh Thị Thu V, Bùi Anh T và Trương Thị Kim L1, về hành vi “Đánh bạc trái phép” theo quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính Phủ, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự là phù hợp.
- Đối với hành vi của Ngô Thị L cung cấp địa điểm và bài Tú Lơ Khơ cho Nguyễn Thị Thư L và những người khác đánh bạc vào ngày 21/6/2020, do Ngô Thị L chưa có tiền án, tiền sự về hành vi Đánh bạc, Gá bạc, Tổ chức đánh bạc nên hành vi không cấu thành tội phạm mà cấu thành vi phạm hành chính. Do vậy, Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Ngô Thị L về hành vi “Dùng nhà, chỗ ở của mình để chứa bạc” theo quy định tại điểm b, khoản 4, Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính Phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự là phù hợp.
[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu, sung công quỹ nhà nước đối với số tiền 2.860.000 đồng (Hai triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng) tạm giữ trên chiếu bạc; số tiền 720.000 đồng (Bảy trăm hai mươi nghìn đồng) tạm giữ trên người của Huỳnh Thị Thu V và số tiền 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng) tạm giữ trên người của Bùi Anh T, là tiền dùng vào mục đích đánh bạc.
- Tịch thu, tiêu hủy đối với 02 (Hai) bộ bài tây, loại 52 quân bài/01 bộ, đã qua sử dụng là công cụ bị cáo sử dụng để đánh bạc.
[3] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Thư L phạm tội “Đánh bạc”.
1. Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Xử phạt: Nguyễn Thị Thư L 09 (chín) tháng tù.
Áp dụng Điều 55, khoản 2 Điều 56, khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự:
Tổng hợp hình phạt 02 năm 09 tháng tù của Bản án số: 52/2019/HSST ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 (hai) bản án là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam của Bản án số: 52/2019/HSST ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, từ ngày 20/8/2018 đến ngày 30/8/2018.
[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu, sung công quỹ nhà nước đối với số tiền 2.860.000 đồng (Hai triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng) tạm giữ trên chiếu bạc; số tiền 720.000 đồng (Bảy trăm hai mươi nghìn đồng) tạm giữ trên người của Huỳnh Thị Thu V và số tiền 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng) tạm giữ trên người của Bùi Anh T, là tiền dùng vào mục đích đánh bạc.
- Tịch thu, tiêu hủy đối với 02 (Hai) bộ bài tây, loại 52 quân bài/01 bộ, đã qua sử dụng là công cụ bị cáo sử dụng để đánh bạc.
(Đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04/11/2020 giữa Cơ quan điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột với Chi cục Thi hành án dân sự Tp. Buôn Ma Thuột).
[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Bị cáo Nguyễn Thị Thư L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 382/2020/HSST ngày 01/12/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 382/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về