Bản án 38/2021/HS-ST ngày 08/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 38/2021/HS-ST NGÀY 08/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 08 tháng 4 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 28/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2021/QĐXXST-HS ngày 23/3/2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thành L; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: xx/x/xxx, tại thành phố C, Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: Tổ 8, khu 5, phường, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Đặng T và bà: Phạm Thị V; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 25/3/2019, Công an phường M ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc” dưới hình thức mua số đề. Ngày 27/3/2019 đã thi hành xong; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 20/01/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố C – Có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: Anh Bùi Xuân N, Hoàng Duy K – Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 20/01/2021, tại khu vực tổ 5, khu 11, phường M, thành phố C, Công an thành phố C bắt quả tang Nguyễn Thành L có hành vi tàng trữ trái phép 02 túi nilon bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng và còn thu giữ của L: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar, vỏ màu xám và số tiền 270.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 364/KLGĐ ngày 25/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 02 túi nilon thu giữ của Nguyễn Thành L là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,502 gam.

Bản cáo trạng số 35/CT-VKSCP ngày 15/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố bị cáo Nguyễn Thành L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thành L khai nhận về hành vi phạm tội cụ thể: Bị cáo sử dụng ma túy đá từ năm 2016, khoảng 11 giờ 00 phút ngày 20/01/2021 do có nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo đã đi xe ôm đến khu vực gần bệnh viện cọc 7 thuộc phường Cẩm Thịnh mua 02 túi ma túy đá của người phụ nữ khoảng 50 tuổi với giá 600.000 đồng. Bị cáo cầm ma túy trên tay trái rồi gọi xe ôm đi về đến khu vực tổ 5, khu 11, phường Mông D, xuống xe để tìm chỗ sử dụng ma túy thì bị Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng gồm: 02 túi nilon (01 túi kích thước 2 x 2,5cm, 01 túi kích thước 1,7 x 1,8cm) bên trong chứa ma túy đá, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar màu xám và số tiền 270.000 đồng, điện thoại bị cáo dùng để liên lạc với người thân còn số tiền do lao động mà có nên không liên quan đến việc phạm tội. Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không bị oan. Bị cáo thấy ân hận về hành vi phạm tội của mình nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Anh Bùi Xuân N và anh Hoàng Duy K – là người chứng kiến trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa có lời khai tại cơ quan điều tra thể hiện: Các anh chứng kiến công an kiểm tra Nguyễn Thành L, thu giữ 02 túi nilon bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, L khai nhận đó là ma túy đá ngoài ra công an còn thu giữ của L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar màu xám và số tiền 270.000 đồng. Công an đã tiến hành lập biên bản, niêm phong số ma túy đá và các vật chứng thu giữ của L theo đúng quy định.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Nguyễn Thành L từ 18 (mười tám) tháng đến 21 (hai mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/01/2021 về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thành L số tiền 270.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar không liên quan đến việc phạm tội.

Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận gì thêm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đến mức thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được qui định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thành L không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà Nguyễn Thành L khai nhận về hành vi phạm tội đúng với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 15 phút ngày 20/01/2021; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; cũng như Bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; Phù hợp với lời khai của những người chứng kiến và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Thành L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,502 gam ma túy loại Methamphetamine vào ngày 20/01/2021 nhằm mục đích để sử dụng thì bị công an phát hiện bắt giữ nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, do vậy cần chấp nhận lời luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà còn làm phát sinh nhiều tội phạm khác và là hiểm hoạ đối với mọi gia đình và xã hội. Chính vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Công an phường Mông Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc” nhưng cũng không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm cho bản thân để chấp hành các quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử có xem xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội đã gây ra nên cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo nghiện ma túy, không có việc làm ổn định vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì còn nguyên dấu niêm phong số:

364/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh bên trong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định đây là vật nhà nước cấm lưu hành nên tuyên tịch thu tiêu hủy. Cơ quan công an thu giữ của bị cáo: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar và số tiền 270.000 đồng đều không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[7] Đối với người bán ma túy cho bị cáo, do không biết lý lịch địa chỉ nên không có cơ sở điều tra làm rõ.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thành L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt: Nguyễn Thành L 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/01/2021;

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì số: 364/KLGĐ còn nguyên dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Quảng Ninh bên trong chứa mẫu vật hoàn trả sau giám định.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thành L: 270.000đ (Hai trăm bảy mươi nghìn đồng) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiitar, màu xám, model B310, imei: 352310021365421, kèm 01 sim, 01 pin.

Tình trạng vật chứng, tài sản thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 87/BB-THA ngày 31/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C, tỉnh Quảng Ninh.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Thành L phải nộp: 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2021/HS-ST ngày 08/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:38/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về