Bản án 38/2019/HSST ngày 31/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 38/2019/HSST NGÀY 31/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2019/HSST-QĐ ngày 16 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo.

Họ và tên: Lò Thị Th, sinh năm 1983, tại xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Nơi ĐKNKTT: Bản L, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông: Lò Văn Sinh, sinh năm 1939, con bà Lò Thị Ui, sinh năm 1942. Bị cáo có chồng là Lò Minh Tuấn, sinh năm 1984. Bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2004. Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 17 tháng 12 năm 2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Cầm Kim Loan, trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

1.Quàng Văn T, sinh năm 1989. Trú tại: Bản Nà Nong, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

2. Lường Văn H, sinh năm 1992. Trú tại: Bản Nà Nong, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 20 phút ngày 17/12/2018 Lò Thị Th, sinh năm 1983, trú tại bản L, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La đang ở nhà thì có Quàng Văn T, sinh năm 1989 và Lường Văn H, sinh năm 1992 đều trú tại bản Nà Nong, xã Y, huyện Mường La đến, T hỏi “Mợ còn hàng không? bán cho cháu 500.000đ” Th trả lời “còn” rồi đi xuống bếp lấy 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh, bên trong có chứa cục chất bột màu trắng (Th và T đều biết là Heroine) đưa cho T, T nhận lấy gói ma túy đồng thời đưa cho Th 500.000đ. Th vừa nhận tiền thì bị tổ công tác Công an xã Y, huyện Mường La phát hiện, bắt quả tang. Quá trình bắt giữ, T tự giác giao nộp 01 (một) gói được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh, bên trong có cục chất bột màu trắng và khai là Heroine vừa mua được của Th và Th cũng tự giác giao nộp số tiền 500.000đ và khai là tiền do bán heroine cho T mà có.

Ngoài ra, Th còn khai vào chiều 15/12/2018 (không nhớ giờ) Th đang ở nhà tại bản Nà L, xã Y, huyện Mường La, có Quàng Văn T đến hỏi “Mợ có Heroine bán không?, bán cho cháu hai trăm” Th trả lời “” và lấy 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu xanh bán cho T với số tiền 200.000đ. Số tiền bán ma túy cho T có được Th cũng đã chi tiêu cá nhân hết.

Cùng ngày tổ công tác tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Lò Thị Th phát hiện, thu giữ 02 gói, trong đó: 01 gói được gói bằng nilon màu trắng, bên trong có chứa 20 gói nhỏ gồm 07 gói được gói bằng nilon màu xanh dương và 13 gói được gói bằng nilon màu xanh lá cây, bên trong tất cả các gói đều có chứa cục chất bột màu trắng từ trong giỏ đựng đồ trong phòng bếp; 01(một) gói được gói bằng nilon màu xanh bên trong có chứa cục chất bột màu trắng tại giường ngủ trong nhà của Lò Thị Th.

Vật chứng thu giữ:

Khi bị bắt quả tang thu giữ: 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh, bên trong có cục chất bột màu trắng do Quàng Văn T giao nộp và khai là Heroine vừa mua được của Lò Thị Th. Số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) do Th giao nộp và khai là tiền do bán heroine cho T mà có.

Khi khám xét nhà ở của bị cáo thu giữ:

- 01 gói được gói bằng nilon màu trắng, bên trong có chứa 20 gói nhỏ gồm 07 gói được gói bằng nilon màu xanh dương.

- 13 gói được gói bằng nilon màu xanh lá cây, bên trong tất cả các gói đều có chứa cục chất bột màu trắng từ trong giỏ đựng đồ trong phòng bếp

- 01 gói được gói bằng nilon màu xanh bên trong có chứa cục chất bột màu trắng tại giường ngủ trong nhà của Lò Thị Th.

Ngày 18/12/2018 tại phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường La đã tiến hành bóc mở niêm phong cân tịnh vật chứng, lấy mẫu giám định tại phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La. Kết quả cân tịnh.

- 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa cục chất bột màu trắng thu giữ của Quàng Văn T có khối lượng 0,08 gam, lấy hết làm mẫu giám định ký hiệu TTH.

- 01 gói nilon màu trắng, thu giữ của Lò Thị Th bên trong có chứa 20 gói nhỏ gồm: 07 gói được gói bằng giấy nilon màu xanh dương và 13 gói được gói bằng giấy nilon màu xanh lá cây, bên trong các gói đều có chứa cục chất bột màu trắng có tổng khối lượng 3,16 gam, lấy 0,09 gam là mẫu giám định ký hiệu T1A.

- 01 gói được gói bằng giấy nilon màu xanh, bên trong có chứa cục chất màu trắng thu giữ tại giường ngủ của Lò Thị Th có khối lượng 6,74 gam, lấy 0,1 gam làm mẫu giám định ký hiệu T2A.

Ngày 18 tháng 11 năm 2018 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường La ra quyết định trưng cầu giám định ma túy số: 08/QĐCGĐ đối với các mẫu TTH, T1A và T2A có phải là ma túy không, là loại ma túy gì, có trọng lượng là bao nhiêu.

Ngày 21/12/2018 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La ra bản Kết luận số: 89. Kết luận các mẫu giám định ký hiệu TTH, T1A và T2A đều là ma túy;

loại Heroine.

Tổng khối lượng mẫu gửi giám định là 0,27 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 9,98 gam Heroine.

Tại bản Cáo trạng số: 192/CT-VKSML ngày 22/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Lò Thị Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát, giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Lò Thị Th đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Lò Thị Th từ 8 (tám) năm 6 (sáu) tháng đến 9 (chín) năm(6)sáu tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì công văn của Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín. Mặt trước ghi: Vật chứng vụ: Lò Thị Th- Mua bán trái phép chất ma túy. Bị bắt ngày 17/12/2018 tại Y, huyện Mường La, Sơn La. (Gồm vỏ phong bì cũ + giấy gói cũ + 9,71 gam ký hiệu T1,T2). Mặt sau phong bì có 08 dòng chữ ký, 08 dòng họ tên của các thành phần tham gia niêm phong và 04 hình dấu đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường La tại mép giáp lai của phong bì.

Tịch thu sung qũy Nhà nước số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) do phạm tội mà có.

Truy thu sung qũy Nhà nước số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) bị cáo bán ma túy cho Quàng Văn T vào ngày 15/12/2018.

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

* Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo:

Trong bản luận cứ bào chữa cho bị cáo người bào chữa cho rằng: Bị cáo Lò Thị Th là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng sâu vùng xa, nhận thức pháp luật kém và sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo và tự thú. Đề nghị Hội đồng xem xét tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo tại điểm r, s khoản 1 Điều 51, áp dụng mức hình phạt nhẹ nhất đối với bị cáo, để bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.

Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Mường La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lò Thị Th khai nhận bị cáo đã bán ma túy cho Quàng Văn T 02 lần tại nhà ở của bị cáo.

Lần thứ nhất vào chiều ngày 15/12/2018 bị cáo bán cho Quàng Văn T 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu xanh với số tiền 200.000đ.

Lần thứ hai vào khoảng 13 giờ 20 phút ngày 17/12/2018 bị cáo bán Quàng Văn T và Lường Văn H 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu xanh với số tiền 500.000đ thì bị phát hiện bắt quả tang.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Thị Th, đã có hành vi nhiều lần bán trái phép chất ma túy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” với tình tiết định khung “phạm tội 02 lần” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự có mức hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

Cáo trạng của Viện kiểm sát huyện Mường La đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt: Bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức hành vi mua, bán trái phép chất ma tuý là phạm tội, nhưng vì hám lợi bị cáo nhiều lần cố tình thực hiện, về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương, thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, khi bị bắt và khám xét nhà ở của bị cáo, cơ quan điều tra đã thu giữ được số lương ma túy là 9,98 gam Heroine, mục đích của bị cáo để bán kiếm lời. Do vậy, cần xử phạt bị cáo, mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

Tình tiết giảm nhẹ, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã tự thú và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]Về hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh tài sản của Cơ quan điều tra, gia đình bị cáo không có tài sản gì có giá trị. Xét thấy bị cáo không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung. Do đó hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

[6]Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Một phong bì công văn của Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín. Mặt trước ghi: Vật chứng vụ: Lò Thị Th – Mua bán trái phép chất ma túy. Bị bắt ngày 17/12/2018 tại Y, huyện Mường La – Sơn La. (Gồm vỏ phong bì cũ +giấy gói cũ +9,71gamký hiệu T1,T2). Mặt sau phong bì có 08 dòng chữ ký, 08 dòng họ tên của các thành phần tham gia niêm phong và 04 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Mường La tại mép giáp lai của phong bì. Đây là vật nhà nước độc quyền quản lý và cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo, do phạm tội mà có. Nên tịch thu sung qũy Nhà nước.

Truy thu sung qũy Nhà nước số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) bị cáo bán ma túy cho Quàng Văn T vào ngày 15/12/2018.

Đối với Quàng Văn T, sinh năm 1989 và Lường Văn H, sinh năm 1992, đều trú tại bản Nà Nong, xã Y, huyện Mường La là người đã mua ma túy của Lò Thị Th, mục đích để sử dụng cho bản thân, khối lượng ít không đủ để cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Ngày 06/3/2019 cơ quan cơ quan điều tra Công an huyện Mường La ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Quàng Văn T và Lường Văn H là có căn. Cần chấp nhận Về nguồn gốc số Heroine Lò Thị Th đã bán cho Quàng Văn T, Lường Văn H, Th khai là mua của một người đàn ông tên Thủy, ở huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La mang đến nhà bán cho bị cáo vào ngày 14/12/2018. Bị cáo không biết rõ họ tên đầy đủ và địa chỉ của Thủy. Ngoài lời, khai của bị cáo cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường La không thu thập được chứng cứ, tài liệu gì khác, do đó, không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án. Cần chấp nhận.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định chung.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Lò Thi Th phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma tuý” Xử phạt Lò Thị Th 8 (tám) năm (6) sáu tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 17/12/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án:

Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì công văn của Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín. Mặt trước ghi: Vật chứng vụ: Lò Thị Th – Mua bán trái phép chất ma túy. Bị bắt ngày 17/12/2018 tại Y, huyện Mường La – Sơn La. (Gồm vỏ phong bì cũ +giấy gói cũ +9,71gamký hiệu T1,T2). Mặt sau phong bì có 08 dòng chữ ký, 08 dòng họ tên của các thành phần tham gia niêm phong và 04 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Mường La tại mép giáp lai của phong bì Tịch thu sung qũy số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/5/2019 giữa Công an huyện Mường La và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường La).

Truy thu sung qũy Nhà nước số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án ngày 31/5/2019./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/HSST ngày 31/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về