Bản án 38/2019/HSST ngày 20/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 38/2019/HSST NGÀY 20/12/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải An, Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 35/2018/HSST ngày 03 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Vũ Trung D, sinh ngày 22 tháng 5 năm 1967 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Số 173 Đ, phường L, Quận Ng, Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Mạnh L và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Vũ Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại Bản án số 63/HSST ngày 14/3/2006 của Tòa án nhân dân Quận Ng, Hải Phòng xử phạt 36 tháng tù về tội Cướp giật tài sản; tại Bản án số 88/2009/HS-ST ngày 20/08/2009 của Tòa án nhân dân quận H, Hải Phòng xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích); bị bắt tạm giam từ ngày 25/9/2019; có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Xuân Tr, sinh năm 1981. Nơi cư trú: Số 125 H1, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Hoàng Văn Kh; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Mạnh H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12h30’’ ngày 15/9/2019, Vũ Trung D điều khiển xe máy nhãn hiệu SYM ANGEL màu đen, đeo BKS 16R5-2628 đi đến khu công nghiệp V, phường Đ, quân H, Hải Phòng. Khi đến khu vực trước cửa Chi nhánh Ngân hàng N, số 190 đường V, tổ dân phố Đ1, phường Đ2, quận H, Hải Phòng, D quan sát thấy anh Nguyễn Xuân Tr đỗ xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA CAMRY màu xanh BKS 15A-19779 sát lề đường. Anh Tr xuống xe nhưng không khóa cửa xe, vẫn để ô tô nổ máy và đi vào cây ATM trong Ngân hàng. D quan sát thấy xung quanh vắng người, chiếc xe ô tô không có người trông coi nên đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản trong xe. D điều khiển xe máy ra phía sau xe ô tô, dựng xe ở cách đuôi xe ô tô khoảng 2m. D đi bộ đến cửa xe ô tô phía bên lái, rồi dùng tay trái mở cửa xe, thì thấy có 01 ví da màu đen để ở bệ tỳ tay giữa hai ghế trước xe. D dùng tay trái lấy chiếc ví và đi ra chỗ để xe máy. D điều khiển xe máy đi về hướng ngã 3 Ph, trong khi tay trái vẫn cầm chiếc ví. Khi đi được một đoạn thì D nghe thấy tiếng hô hoán: “Trộm, trộm, đứng lại”. D quay lại thì thấy có anh Hoàng Văn Kh và anh Nguyễn Mạnh H đang điều khiển xe máy đuổi theo phía sau. D tăng ga xe máy, bỏ chạy theo hướng đường V – đường bao Tr – Lê Thánh T. Khi đến trước cửa nhà số 23/613 Lê Thánh T, phường M, quận Ng, Hải Phòng thì anh Kh và anh H đuổi kịp, bắt giữ D. Hai anh kiểm tra chiếc ví da, thấy có 01 điện thoại di động Iphone XS max màu đen, 01 điện thoại di động Iphone 8 Plus màu trắng hồng, 01 căn cước công dân và 01 bằng lái xe ô tô đều mang tên anh Nguyễn Xuân Tr.

Tại Kết luận định giá tài sản ngày 16/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hải An xác định: 01 điện thoại di động Iphone màu đen số sê-ri: G6VXHX61KPJ5 đã qua sử dụng có trị giá 10.400.000 đồng; 01 điện thoại di động iphone màu trắng hồng số sê-ri: C39V73PFJCLP đã qua sử dụng có trị giá 8.000.000 đồng; 01 ví da nam đã qua sử dụng có trị giá 450.000 đồng. Tổng trị giá các tài sản là 18.850.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 40/CT-VKS ngày 30 tháng 11 năm 2019, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An truy tố Vũ Trung D về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 15- 21 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

- Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi như nội dung bản cáo trạng và khai: Bị cáo mượn xe máy SYM ANGEL màu đen, đeo BKS 16R5-2628 của anh Đỗ Huy H qua giới thiệu của chị Nguyễn Thị Kim L vào khoảng tháng 9/2019 để làm phương tiện đi lại. Bị cáo tỏ ra ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hải An, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 15/09/2019, lợi dụng sự sơ hở của anh Nguyễn Xuân Tr, bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của anh Tr, gồm: 01 ví da nhãn hiệu Michael Kors màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS max màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu trắng hồng; 01 căn cước công dân và 01 bằng lái xe ô tô mang tên Nguyễn Xuân Tr. Tổng trị giá tài sản là 18.850.000đ (mười tám triệu tám trăm năm mươi ngàn đồng). Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, gây mất trật tự, trị an ở địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì lười lao động nên bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã có đầy đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt:

[3] Xét về nhân thân: Bị cáo có 02 tiền án, đã được xóa án tích, nhưng cho thấy bị cáo có nhân thân không tốt.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, xét tội phạm mà bị cáo thực hiện là ít nghiêm trọng. Tuy nhiên, xét về nhân thân bị cáo có 02 tiền án đều về tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

- Về trách nhiệm dân sự:

[6] Bị hại không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xét.

- Về xử lý vật chứng:

[7] Đối với tài sản bị chiếm đoạt là 01 ví da, 02 điện thoại di động và 01 căn cước công dân, 01 bằng lái xe ô tô, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại là có căn cứ.

[8] Đối với chiếc xe nhãn hiệu SYM ANGEL đeo BKS 16R5-2628: Kết quả xác minh xác định biển số này không phải của xe SYM ANGEL, mà BKS thật là 15H1-00119. BKS 16R5-2628 là của xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS màu đen bạc, là vật chứng của 01 vụ trộm cắp tài sản khác, xảy ra trước cửa nhà số 225 T, phường Đ, quận H, Hải Phòng ngày 25/8/2019. Đối với xe máy nhãn hiệu SYM ANGEL anh Đỗ Huy H mượn của anh Phạm Huy B từ đầu tháng 9/2019 rồi cho bị cáo mượn để đi lại qua sự giới thiệu của chị Nguyễn Thị Kim L. Cơ quan điều tra chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ của anh Phạm Huy B nên chưa xác minh được chủ sở hữu của chiếc xe. Vì vậy Cơ quan điều tra tách ra để tiếp tục thu thập tài liệu xác minh làm rõ là có căn cứ.

- Về án phí:

[9] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Những vấn đề khác:

[10] Đối với Đỗ Huy H, Nguyễn Thị Kim L tài liệu điều tra không đủ căn cứ để xác định đồng phạm với bị cáo về tội Trộm cắp tài sản nên Cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Điều 135, Điều 136, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, xử phạt: Vũ Trung D 18 (mười tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 25/9/2019.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án đựơc thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi thành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành dân sự đựơc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/HSST ngày 20/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:38/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về