Bản án 38/2019/HS-ST ngày 18/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIÊN BIÊN

BẢN ÁN 38/2019/HS-ST NGÀY 18/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đ. Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Thị N; tên gọi khác: Không; sinh năm 1946, tại xã C, huyện T, tỉnh Đ; Nơi cư trú: Bản K, xã C, huyện T, tỉnh Đ; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; họ tên cha: Lường Văn A (đã chết); họ tên mẹ: Lường Thị D (đã chết); chồng: Lò Văn T (đã chết); bị cáo có 09 con đã trưởng thành. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ 20/3/2019 đến ngày 23/3/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo có bà: Trần Thị Sáu; Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đ. Có mặt.

* Người phiên dịch cho bị cáo có: Tòng Thị T, nơi cư trú: Bản K, xã C, huyện T, tỉnh Đ

* Người có nghĩa vụ liên quan: Họ và tên: Cà Văn P, sinh năm 1992. Nơi cư trú: Bản P, xã C, huyện T, tỉnh Đ. Vắng mặt.

* Người làm chứng:

1. Họ và tên: Lò Văn T, sinh năm 1971. Nơi cư trú: Bản H2, xã C, huyện T, tỉnh Đ. Vắng mặt.

2. Họ và tên: Lò Văn B, sinh năm 1973. Nơi cư trú: Bản H 1, xã C, huyện T, tỉnh Đ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 19/3/2019, Lò Thị N ở nhà dọn dẹp tầng trên tầng hai của con trai là Lò Văn Đ (đã chết) thì thấy 10 gói Heroin (trong đó 01 gói được gói bằng túi nilon màu xanh, 08 gói bằng túi nilon màu trắng và 01 gói bằng giấy trắng) để dưới đệm giường ngủ của Đ, N liền lấy đem cất giấu ở dưới đệm ngủ ở tầng một nhằm mục đích có ai hỏi mua thì bán lấy tiền. Khoảng 08 giờ 20 phút ngày 20/3/2019, N đang ở nhà một mình thì có Cà Văn P, trú tại bản P, xã Chiềng Đ, huyện T cùng Lò Văn B, Lò Văn T (cùng trú tại: Bản H, xã C, huyện T) cùng đến nhà N. Sau đó P hỏi mua Heroine của N để sử dụng. N đồng ý và đi vào phòng ngủ lấy ra 01 gói Heroine ra bán cho P với giá 50.000đồng, lúc đó Bảy và Thiên nhìn thấy. Khi mua bán xong được một lúc thì Tổ công tác Công an huyện T đến bắt quả tang, thu giữ trên tay của P 01 gói Heroine. Đồng thời bắt quả tang thu giữ 09 gói Heroine dưới đệm ngủ của N. Ngoài ra còn tạm giữ của N 290.000đồng.

Trong quá trình điều tra bị cáo Lò Thị N thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố.

Tại Biên bản mở niêm Phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định ngày 20/3/2019 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T xác định: 09 gói vật chứng nghi là Hêroin thu giữ của Lò Thị N có khối lượng là 0,75 (không phẩy bảy lăm) gam. Trích 0,06 (không phẩy không sáu) gam làm mẫu vật gửi giám định. 01 gói vật chứng còn lại 0,06 (không phẩy không sáu) gam chất bột màu trắng nghi Heronine thu giữ của Cà Văn P. Trích 0,06 (không phẩy không sáu) gam làm mẫu vật gửi giám định.

Tại Bản kết luận giám định số: 368/GĐ-PC09 ngày 29/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận: Mẫu chất bột màu trắng được trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Thị N gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Thị N là 0,75gam.

Tại Bản kết luận giám định số: 369/GĐ-PC09 ngày 29/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận: Mẫu chất bột màu trắng được trích ra từ vật chứng thu giữ của Cà Văn P gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Khối lượng vật chứng thu giữ của Cà Văn P là 0,06gam.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người liên quan không có khiếu nại về kết luận giám định của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ nêu trên.

Bản cáo trạng số: 43/CT-VKS-TG ngày 14/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện T để xét xử bị cáo Lò Thị N về tội Mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s, o khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lò Thị N từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo (khoản 5 Điều 251 BLHS).

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng trong vụ án theo quy định của pháp luật.

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS, Nghị quyết 326/2016 của Chính phủ. Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí quan điểm truy tố và các tình tiết giảm nhẹ TNHS của vị đại diện VKS; đề nghị hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 BLHS cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới khung của điều luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố là đúng, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Nội dung vụ án:

Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; do vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 20/3/2019, tại nhà ở của mình thuộc Bản K, xã C, huyện T, tỉnh Đ, Lò Thị N đã thực hiện hành vi bán trái phép 0,06 gam Heroine cho Cà Văn P với giá 50.000đồng. Ngoài ra N còn bị cơ quan điều tra bắt quả tang thu giữ 0,75 gam heroine. N tàng trữ nhằm mục đích để bán lẻ kiếm lời. Hành vi đó của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật cần phải xử lý nghiêm. Hành vi nêu trên cùng khối lượng Heroin thu giữ của Lò Thị N có đủ các yếu tố cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 251 BLHS quy định:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Lò Thị N là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp; Phạm tội vì mục đích kinh tế. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra. Vì vậy, Bản cáo trạng số 43/CT-VKS-TG ngày 14/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[2]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, nguyên nhân xuất phát từ động cơ, mục đích bán ma túy kiếm lời. Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã Chiềng Sinh, huyện Tuần, tỉnh Đ. Từ nhỏ không được đi học mà ở nhà lao động sản xuất, sau đó xây dựng gia đình rồi về làm ăn sinh sống tại: Bản K, xã C, huyện T, tỉnh Đ. Bị cáo thuộc dân tộc thiểu số, không được đi học.

Ngày 20/3/2019 N bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T bắt quả tang về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy.

Bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo là người già (sinh năm 1946), đến thời điểm hiện tại đã 73 tuổi; bị cáo N có con trai là Lò Văn Phản được Nhà nước tặng thưởng huân chương chiến công hạng 3 và Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng 3. Vì vậy nên cần được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s, o khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác.

Xét tính chất và mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Đ tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với các quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội, để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có thể giúp bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[3]. Về hình phạt bổ sung:

Căn cứ vào khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự về hình phạt bổ sung là phạt tiền. Qua tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ; HĐXX xét thấy gia đình bị cáo sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn; Biên bản xác minh cũng thể hiện gia đình bị cáo không có tài sản, nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền. Vì vậy, HĐXX quyết định không áp dụng hình phạt này đối với bị cáo.

[4]. Về vật chứng vụ án:

Đối với 01 gói niêm P màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,69 gam Heroin đựng trong một túi nilon trắng gắn kín lại, 01 vở P bì dùng để niêm P vật chứng, 08 mảnh nilon màu trắng và 01 mảnh nilon màu xanh cần tịch thu tiêu hủy, theo khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và Khoản 1; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[5]. Các vấn đề khác:

Bị cáo khai nguồn số Heroine trên lấy ở dưới đệm ngủ của Lò Văn Đ (con của N) cất giấu để bán. Qua xác minh Lò Văn Đ ở cùng bị cáo, đã chết ngày 16/02/2019. Ngoài lời khai của N, không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh nguồn gốc số Heroine khác với bị cáo khai báo. Vì vậy, cơ quan điều tra không có cơ sở kết luận số Heroine là do Lò Văn Đ để lại nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với Cà Văn P là người mua Heroine của N nhằm mục đích sử dụng. Xét thấy hành vi tàng trữ trái phép 0,06 gam Heroine chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, nên Cơ quan CSĐT-Công an huyện T ra quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với P bằng hình thức phạt tiền. Xét quyết định xử lý của Cơ quan điều tra Công an huyện T là phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Quá trình điều tra cơ quan công an thu giữ 290.000đồng, qua điều tra xác minh số tiền đó thuộc sở hữu cùa Lò Văn V (con của bị cáo). Ngày 06/5/2019, Cơ quan điều tra Công an huyện T ra Quyết định xử lý đồ vật bằng hình thức trả lại số tiền trên cho Lò Văn V. Xét việc trả tài sản của Cơ quan điều tra Công an huyện T là phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6]. Người bào chữa đề nghị HĐXX cho bị cáo hưởng mức hình phạt dưới khung của điều luật là không phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[7]. Về án phí: Tại phiên tòa bị cáo đề nghị HĐXX xét miễn án phí HSST cho bị cáo. Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, HĐXX xét thấy bị cáo là dân tộc thiểu số sống tại vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn nên miễn án phí HSST theo quy định.

[8]. Về quyền kháng cáoBị cáo, người có nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định.

[9]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, tỉnh Đ, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Đ trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s, o khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS. Điểm a khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 BLTTHS. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Thị N phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Thị N 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Được trừ thời hạn bị cáo bị tạm giữ từ 20/3/2019 đến 23/3/2019 là: 03 (ba) ngày. Bị cáo còn phải thi hành 23 (hai mươi ba) tháng, 27 (hai mươi bảy) ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3. Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,69 gam Heroin đựng trong một túi nilon trắng gắn kín lại, 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng, 08 mảnh nilon màu trắng và 01 mảnh nilon màu xanh. Theo phiếu nhập kho vật chứng số: PNKVC 62, ngày 17/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đ.

4. Án phí: Bị cáo Lò Thị N được miễn án phí HSST.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 18/6/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/HS-ST ngày 18/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về