Bản án 38/2019/HSST ngày 07/02/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 38/2019/HSST NGÀY 07/02/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 07 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 30/2019/HSST ngày 30 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ tên: Trần Bảo D; Tên gọi khác: Đen, Chương, sinh năm 1986, tại BL; Nơi cư trú: Số 4/77C, khóm B, phường N, thành phố B, tỉnh BL; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: Biết đọc, biết viết; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn T (chết) và bà Mai Thị N; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: 02 lần:

Ti bản án hình sự số 42 ngày 16/7/2009 của Tòa án nhân dân thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/12/2009.

Ti bản án số 29 ngày 25/4/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 07 năm tù về tội “mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/6/2018;

Nhân thân: Xấu. Bắt tạm giữ từ ngày 30/12/2018 đến ngày 02/01/2019 chuyển tạm giam cho đến nay.

Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 11 giờ 10 phút ngày 30/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C hát hiện bắt quả tang Trần Bảo D đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại quán cà phê Ánh Nguyệt đường Đinh Tiên Hoàng, khóm B, phường M, thành phố C. Thu giữ bên trong gói thuốc lá hiệu SCOTT 04 bịch Nylong đều có chứa chất tinh thể (nghi là ma túy), gói thuốc hiệu SCOTT được D cất giấu vào hộc phía sau bửng chắn gió của xe mô tô biển kiểm soát 65G1 – 183.28 màu đỏ đen nhãn hiệu Luvias GXT (xe D đang sử dụng), 04 bịch nylong được niêm phong trong phong bì có chữ ký và dấu vân tay của D và có chữ ký ghi họ tên Lê Thanh T – ĐTV, Nguyễn Thanh C – Trưởng Công an phường 1, Nguyễn Thanh Đ – Người chứng kiến và 02 dấu tròn của Công an phường 1, thành phố C. Quá trình kiểm tra bắt quả tang có thu giữ các đồ vật sau:

Tiền Việt Nam 25.300.000 đồng;

01 xe mô tô biển kiểm soát 65G1 – 183.28;

01 điện thoại di động hiệu Sony màu đen đã qua sử dụng;

01 điện thoại di động Nokia màu xám đã qua sử dụng;

01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 65G1 – 183.28 tên Nguyễn Thị Cẩm H;

01 cây dao lưỡi bằng sắt, cán gỗ, dài khoảng 40cm.

Đến 13 giờ 40 phút ngày 30/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau tiến hành khám xét khẩn cấp phòng trọ của Trần Bảo D thuê ở cùng với Nguyễn Thị Cẩm H tại nhà trọ Ngọc Hân thuộc ấp Bà Điều, xã L, thành phố C và thu giữ các đồ vật gồm: 01 cây cân tiểu ly; 02 nỏ thủy tinh dùng để hút ma túy;

Tại các biên bản thử nước tiểu phát hiện nhanh chất ma túy lúc 14 giờ 30 phút đối với Trần Bảo D và biên bản lúc 15 giờ 45 phút đối với Nguyễn Thị Cẩm H cùng ngày 30/12/2018. Kết quả cho thấy D có sử dụng ma túy, còn H thì không sử dụng ma túy.

Tại kết luận giám định số 228/GĐH-PC09 ngày 01/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh M kết luận:

Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 04 bọc nylong được niêm phong kín trong phong bì hình chữ nhật, ký hiệu M.84/2018, thu giữ vào ngày 30/12/2018 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 34,4408 gam, loại Ketamine.

Hoàn lại đối tượng giám định 22,4299 gam mẫu ký hiệu M.84/2018 gửi đến giám định có niêm phong sau khi trích giám định, không lưu và toàn bộ bao gói.

Quá trình điều tra Trần Bảo D khai nhận bản thân có sử dụng ma túy nên nảy sinh ý định mua ma túy về tìm người bán lại để kiếm lời tiếp tục mua ma túy sử dụng. Vào tháng 11/2018, D đến cầu Nhị Thiên Đường thuộc quận 8, thành phố Hồ Chí Minh gặp 01 bé trai khoảng 14 tuổi (không rõ họ tên) mua 04 bịch ma túy với giá 4.000.000 đồng. Khi mua được ma túy D đem về nhà phân ra mỗi bịch một ít để sử dụng. Số còn lại D ở Bạc Liêu tìm người bán lại nhưng không bán được.

Đến ngày 27/12/2018, D điều khiển xe mô tô biển số 65G1 – 183.28 của Nguyễn Thị Cẩm H là bạn gái của D đến thành phố C để tìm người bán lại. Khi đến thành phố Cà Mau, D và H thuê phòng trọ ở ấp Bà Điều, xã L, thành phố C để nghỉ và khi thuê phòng trọ D cất giấu 04 bịch ma túy bên ngoài phòng trọ. Đến hơn 10 giờ ngày 30/12/2018, D kêu H ở phòng trọ, còn D lấy xe của H đi công việc. Sau đó, D đi đến nơi cất giấu ma túy lấy bỏ vào vỏ gói thuốc lá hiệu SCOTT cất giấu vào hộc phía sau bửng chắn gió của xe đi tìm người bán lại. Khi D đến quán cà phê Ánh Nguyệt đường Đinh Tiên Hoàng, khóm B, pH M, thành phố C, D vào quán uống nước thì bị lực lượng Công an thành phố C kiểm tra bắt quả tang cùng tang vật.

Đi với Nguyễn Thị Cẩm H trình bày: H quen biết với D vào khoảng tháng 8/2018 cho đến nay. Bản thân H không sử dụng ma túy cũng không biết D sử dụng ma túy và mua bán ma túy. Ngày 30/12/2018 D lấy xe của H chạy ra ngoài. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày Công an đến khám xét phòng trọ thi mới biết D bị Công an bắt quả tang về hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Trong lúc khám xét Công an có thu giữ 01 cây cân tiểu ly và 02 nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma túy của D.

Đi với số tiền 25.300.000 đồng thu giữ của Trần Bảo D qua điều tra chứng minh được số tiền này là do D mượn của chị ruột tên Trần Thị Kim T không liên quan đến việc phạm tội và chị T xin nhận lại số tiền trên. Ngày 04/01/2019, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị T số tiền 25.300.000 đồng.

Đi với xe mô tô biển số kiểm soát 65G1 – 183.28 và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 65G1-183.28 do Nguyễn Thị Cẩm H đứng tên đăng ký sở hữu. H không biết D sử dụng xe vào việc phạm tội và có yêu cầu nhận lại xe. Ngày 05/01/2019, Cơ quan điều tra đã trả lại xe và giấy đăng ký xe cho H.

Đi với số ma túy và vỏ bao gói thuốc SCOTT được hoàn lại sau khi giám định và 01 điện thoại di động hiệu Sony màu đen đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động Nokia màu xám đã qua sử dụng, 01 con dao lưỡi bằng sắt, cán bằng gỗ dài khoảng 40cm; 01 cây cân tiểu ly và 02 nỏ thủy tinh dùng để hút ma túy đang được bảo quản chờ xử lý.

Ti bản Cáo trạng số 38/CT-VKS ngày 28/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Trần Bảo D về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm n, q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa:

Kiểm sát viên giữ nguyên Cáo trạng truy tố: Về tội danh tuyên bố bị cáo Trần Bảo D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Về điều luật áp dụng và hình phạt áp dụng điểm n, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Bảo D từ 09 đến 10 năm tù.

Về tang vật: Áp dụng Điều 47, 48 bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ 22,4299 gam mẫu Ký hiệu M.84/2018 cùng toàn bộ bao gói là các mẫu vật hoàn lại sau khi trích giám định; tịch thu tiêu huỷ 01 cân tiểu ly; 02 nỏ thủy tinh dùng để hút ma túy. Tịch thu tiêu hủy 01 cây dao lưỡi bằng sắt, cán bằng gỗ, dài khoảng 40cm thu giữ của bị cáo. Trả lại cho bị cáo D 01 điện thoại di động hiệu Sony màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xám đã qua sử dụng hiện Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau quản lý.

Bị cáo Trần Bảo D: Không thừa nhận bản thân mua bán ma túy, bị cáo cho là trong quá trình điều tra truy tố do bản thân có sử dụng chất ma túy nên tinh thần không tỉnh táo bị cáo không nhớ bản thân mình đã khai những gì. Tại phiên tòa bị cáo khai nhận về thời gian, địa điểm, số lượng ma túy như trong các biên bản ghi lời khai và số lượng ma túy theo kết luận giám định là đúng nhưng bị cáo chỉ mua về để dành sử dụng dần chứ không có mục đích mua bán.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng là phù hợp.

[2] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo thừa nhận bản thân nghiện ma túy, do muốn có tiền để sử dụng ma túy nên vào tháng 11/2018 bị cáo đến Cầu Nhị Thiên Đường, Quận 8, thành phố Hồ Chí Minh liên hệ mua 04 bịch ma túy với giá 4.000.000 đồng. Khi về bị cáo chiết ra một ít để sử dụng, số còn lại bị cáo tìm người bán lại tại thành phố Bạc Liêu nhưng không bán được, sau đó bị cáo đến thành phố Cà Mau tìm người để bán lại nhưng chưa bán được thì bị bắt quả tang tại quán cà phê Ánh Nguyệt trên đường Đinh Tiên Hoàng, khóm 3, phường M, thành phố C, tỉnh M.

Ti phiên tòa bị cáo Trần Bảo D thay đổi lời khai, bị cáo thừa nhận về thời gian, địa điểm, số lượng ma túy và các tang vật cơ quan điều tra thu giữ là đúng như lời khai trong quá trình điều tra, nhưng bị cáo mua ma túy về sử dụng dần chứ không có mục đích mua bán và cũng chưa bán cho ai.

[3] Qua xem xét toàn bộ chứng cứ có tại hồ sơ vụ án cùng với lời khai của bị cáo tại phiên tòa Hội đồng xét xử thấy rằng tại phiên tòa bị cáo cho rằng do bản thân bị cáo nghiện nên mua ma túy về để sử dụng và trong quá trình điều tra do bị cáo sử dụng ma túy nên tinh thần không được minh mẫn bị cáo không nhớ rõ bản thân mình đã khai nội dung gì, và do cán bộ điều tra nhờ bị cáo ký tên vào các biên bản ghi lời khai, bị cáo không biết các nội dung trong đó là không có cơ sở. Bởi lẽ đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ Cơ quan điều tra thu thập trong quá trình điều tra gồm: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 30/12/2018 (BL 34), Biên bản ghi lời khai ngày 30/12/2018 (BL 47); ngày 01/01/2019 (BL 49); biên bản hỏi cung bị can vào các ngày 02/01/2019 (BL 57); ngày 03/01/2019 (BL 58) bị cáo đều thừa nhận bản thân mua ma túy về nhằm mục đích bán lại để kiếm lời mua ma túy sử dụng, cân tiểu ly bị cáo dùng để khi nào có người mua thì mang ra cân. Từng biên bản bị cáo đều khai sức khỏe bình thường, minh mẫn đủ điều kiện làm việc, các biên bản ghi lời khai, bản cung đều có người chứng kiến trong đó có bạn gái của bị cáo, bị cáo ký tên, điểm chỉ phù hợp với nhau về diễn biến sự việc và phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa về thời gian, địa điểm, nội dung sự việc, phù hợp với các tang vật thu giữ và các chứng cứ khác đã thu thập được và bị cáo thừa nhận chữ ký trong các biên bản là của bị cáo, nên bị cáo cho là khi lấy lời khai cũng như hỏi cung, bị cáo không tỉnh táo là không không phù hợp. Đối chiếu các lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho rằng bản thân chỉ mua ma túy về để sử dụng không nhằm mục đích mua bán, cân tiểu ly bị cáo mang về cho cháu bị cáo chơi là không có cơ sở nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Bản thân bị cáo từng bị Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đáng lẽ khi chấp hành xong bản án bị cáo phải nhận thức được và sửa chữa sai lầm của mình để trở thành người công dân tốt cho xã hội nhưng bị cáo lại một lần nữa thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất túy với tổng trọng lượng 34,4408 gam nhằm bán lại cho người khác để hưởng lợi từ số tiền chênh lệch tiếp tục mua ma túy sử dụng cho bản thân. Hành vi đó của bị cáo đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung tăng nặng và thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo điểm n, q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy nên nhận thức rất rõ tác hại của ma tuý ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, đời sống của con người, gián tiếp gây ra các tệ nạn trong xã hội, làm suy thoái nòi giống và có thể dẫn đến các căn bệnh truyền nhiễm khác; gây mất an ninh trật tự, gây hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội của mình. Bản thân bị cáo đã từng bị kết án về tội ma túy. Tuy nhiên, sau khi chấp hành án xong bị cáo không biết cải sửa, rèn luyện bản thân mà tiếp tục lao vào con đường phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy rằng cần có mức án tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi bị cáo đã gây ra nhằm để giáo dục, răn đe bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội, đồng thời nhằm cảnh báo, tuyên truyền với những ai không biết hoặc cố ý không biết tác hại của ma tuý, xâm hại đến sức khoẻ con người, làm ảnh hưởng xấu đến xã hội, nhằm để phòng ngừa hậu quả có thể xảy ra.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo không thành khẩn, khai báo quanh co, không thừa nhận hành vi phạm tội của mình, chứng tỏ bản thân bị cáo không biết ăn năn hối cải và bị cáo không có các tình tiết giảm nhẹ khác nên hội đồng xét xử không xem xét các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về vật chứng: Xét thấy số ma tuý là Ketamine sau khi trích giám định, hoàn lại mẫu vật được niêm phong là vật phạm pháp bị nghiêm cấm nên tịch thu tiêu huỷ; Đối với 01 điện thoại di động hiệu Sony màu đen và 01 điện thoại Nokia màu xám đã qua sử dụng, đây là tài sản cá nhân của bị cáo không dùng vào việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo là phù hợp; đối với 01 cây cân tiểu ly, 02 nỏ thủy tinh dùng để hút ma túy là vật bị cáo dùng vào việc phạm tội; 01 cây dao sắt, cán gỗ dài khoảng 40cm là hung khí nguy hiểm nên cần tịch thu tiêu huỷ; riêng số tiền 25.300.000đ qua điều tra chứng minh được bị cáo mượn của chị Trần Thị Kim T, chị T có yêu cầu được nhận lại, bị cáo đồng ý giao trả cho chị T nên ngày 04/01/2019 Cơ quan điều tra đã trả số tiền trên cho chị Thúy là phù hợp. Đối với xe mô tô biển số kiểm soát 65G1-183.28 và giấy đăng ký xe mô tô 65G1- 183.28 tên Nguyễn Thị Cẩm H là tài sản của Nguyễn Thị Cẩm H, khi bị cáo D sử dụng xe để thực hiện hành vi phạm tội chị H không biết nên ngày 05/01/2019 Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị H là có cơ sở.

Đi với bé trai khoảng 14 tuổi, bị cáo khai bán ma túy cho bị cáo tại Quận 8, thành phố Hồ Chí Minh nhưng không biết họ tên và địa chỉ cụ thể nên chưa làm việc được. Giao Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đi với Nguyễn Thị Cẩm H trong quá trình thuê phòng trọ sống với bị cáo D, việc D tàng trữ ma túy nhằm mục đích bán lại và sử dụng ma túy H không biết nên không đề cập xử lý đối với Nguyễn Thị Cẩm H.

[6] Về án phí, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm n, q khoản 2 Điều 251; Điều 47, 48 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban tH vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Trần Bảo D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Bảo D 10 (Mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 30/12/2018.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 22,4299 gam mẫu Ký hiệu M.84/2018 cùng toàn bộ bao gói là các mẫu vật hoàn lại sau khi trích giám định; tịch thu tiêu huỷ 01 cân tiểu ly; 02 nỏ thủy tinh dùng để hút ma túy. Tịch thu tiêu hủy 01 cây dao lưỡi bằng sắt, cán bằng gỗ, dài khoảng 40cm thu giữ của bị cáo. Trả lại cho bị cáo D 01 điện thoại di động hiệu Sony màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xám đã qua sử dụng hiện Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau quản lý.

Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải nộp số tiền là 200.000đ (chưa nộp).

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/HSST ngày 07/02/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về