Bản án 38/2019/HS-ST ngày 05/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAM RANH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 38/2019/HS-ST NGÀY 05/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu Q, sinh năm 1992 tại Hà Tĩnh.

Nơi thường trú: Thôn LP, xã TH, huyện TH, tỉnh Hà Tĩnh; Chỗ ở: Không có nơi ở rõ ràng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Hữu N, con bà: Trương Thị T.

Tiền án: Ngày 26/8/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2015/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/02/2016, chưa chấp hành xong phần bồi thường về dân sự.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/05/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Nguyễn Hữu L – Sinh năm: 1970

Địa chỉ: Thôn HS, xã CTĐ, CR, Khánh Hoà.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Hà Đình Đ - Sinh năm: 1993

Địa chỉ: Thôn LS 1, xã CN, TN, Bình Thuận.

- Người làm chứng:

+ Ông Trần Tuấn K – Sinh năm: 1989

Địa chỉ: Thôn HS, xã CTĐ, CR, Khánh Hoà.

+ Ông Huỳnh Văn PH – Sinh năm: 1964

Địa chỉ: Thôn HS, xã CTĐ, CR, Khánh Hoà.

+ Ông Trần Tuấn A – Sinh năm: 1985

Địa chỉ: Thôn HS, xã CTĐ, CR, Khánh Hoà.

(Tại phiên tòa, Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 28/5/2019, Nguyễn Hữu Q đi xe khách từ thành phố Hồ Chí Minh ra thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa gặp người tên Công (chưa rõ lai lịch) để cùng nhau đi trộm cắp tài sản.

Đến khoảng 07 giờ ngày 29/5/2019, Công điều khiển xe mô tô hiệu Sirius màu đen (không rõ biển số) chở Q vào thành phố Cam Ranh để trộm cắp xe mô tô. Đến khoảng 11 giờ 50 phút ngày 29/5/2019, Q điều khiển xe chở Công đi đến tiệm bán quần áo của chị Nguyễn Thị Mỹ H thuộc thôn HS, xã CTĐ, thành phố Cam Ranh thì Công thấy xe mô tô 37K1-916.81của ông Nguyễn Hữu L đang dựng trước tiệm, trên xe có gắn chìa khóa. Công nói Quỳnh đến lấy xe và Q đồng ý. Công đứng ngoài cảnh giới, Q đi bộ đến lấy xe mô tô, sau đó bị cáo Nguyễn Hữu Q ngồi lên xe, gạt chân chống dịch chuyển đầu xe hướng ra đường, mở khóa xe để điều khiển xe bỏ đi thì bị ông L cùng một số người dân phát hiện, truy hô và bắt giữ. Công điều khiển xe mô tô bỏ chạy.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 44/HĐĐG ngày 29/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố Cam Ranh kết luận: Xe mô tô 37K1-916.81 trị giá 47.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 54/CT-VKSCR-HS ngày 31/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cam Ranh đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu Q về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cam Ranh thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên nội dung đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Hữu Q và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu Q mức hình phạt từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hữu Q thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 292, 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên cũng như của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của điều tra viên, kiểm sát viên và của các cơ quan tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, đúng quy định.

[3] Về nội dung:

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hữu Q khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng. Phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 29/5/2019, Kết luận định giá tài sản số 44/HĐĐG ngày 29/5/2019 và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra.

Đồng thời, qua phần xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 50 phút ngày 29/5/2019, tại thôn Hòa Sơn, xã Cam Thịnh Đông, thành phố Cam Ranh bị cáo Nguyễn Hữu Q có hành vi lén lút chiếm đoạt xe mô tô 37K1-916.81 của ông Nguyễn Hữu Lộc, trị giá 47.500.000 đồng. Hành vi chiếm đoạt tài sản của bị cáo đã hoàn thành từ thời điểm bị cáo ngồi lên xe, gạt chân chống dịch chuyển đầu xe hướng ra đường, mở khóa xe để điều khiển xe.

Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cam Ranh truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với người tên Công có hành vi cùng Nguyễn Hữu Q trộm cắp xe mô tô 37K1-916.81, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cam Ranh chưa xác định được lai lịch nên tiếp tục tiến hành điều tra làm rõ xử lý sau.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm và cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân: Bị cáo đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên Hội đồng xét xử không xét. Nếu có yêu cầu sẽ xét xử sau theo quy định của pháp luật.

[8] Về xử lý vật chứng: Một (01) cây tuýp làm bằng kim loại màu trắng “TOP” (kích thước 14x04) cm bị cáo dùng vật chứng này để thực hiện hành vi phạm tội, 02 ống kim tiêm BRAUN làm bằng nhựa màu trắng đỏ bị cáo mua để sử dụng ma túy. Xét các vật chứng này không có giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy. Số tiền 1.150.000đ (Một triệu một trăm năm mươi nghìn đồng) là của bị cáo và không phải là vật chứng nên trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 * Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

- Các Điều 106, 292 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu Q 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giam 29/5/2019.

2. Về vật chứng:

- Tịch thu và tiêu hủy 01 cây tuýp làm bằng kim loại màu trắng “TOP” (kích thước 14x04) cm; 02 ống kim tiêm BRAUN làm bằng nhựa màu trắng đỏ theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/8/2019 giữa Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an thành phố Cam Ranh và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cam Ranh.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hữu Q: Số tiền 1.150.000đ (Một triệu một trăm năm mươi nghìn đồng) theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 23/7/2019 (Nộp vào tài khoản số 3949.0.9041629.00000 của Công an thành phố Cam Ranh tại Kho bạc Nhà nước Cam Ranh).

3. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại – ông Nguyễn Hữu L; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông Hà Đình Đ vắng mặt nên Hội đồng xét xử không xét. Nếu có yêu cầu sẽ xét xử sau theo quy định của pháp luật.

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu Q phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/HS-ST ngày 05/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:38/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cam Ranh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về