Bản án 38/2019/HNGĐ-ST ngày 15/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 38/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 15 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 287/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2019/QĐXX-ST ngày 02 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Ông Trần Minh H, sinh năm 1968; thường trú: Số 8/7C, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương; tạm trú: Số 31/8, tổ 8, khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2/ Bị đơn: Bà Trần Thị Bình M, sinh năm 1966; thường trú: Số 8/7C, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 29/3/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Minh H và bà Trần Thị Bình M có thời gian tìm hiểu nhau khoảng mấy tháng thì tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện D (nay là phường T, thị xã D), tỉnh Bình Dương theo giấy chứng nhận kết hôn số 82/KH, quyển số 08 ngày 01/7/2002.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại số 8/7C, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông H thường xuyên xa nhà, không chăm lo gia đình, vợ chồng bất đồng quan điểm sống dẫn đến cãi nhau và sống ly thân từ cuối năm 2014. Nay ông H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với bà Trần Thị Bình M.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung tên Trần Ngọc A, sinh ngày 29/8/1997 và Trần Bảo N, sinh ngày 17/8/2007. Đối với cháu Trần Ngọc A đã đủ 18 tuổi nên không yêu cầu giải quyết; đối với cháu Trần Bảo N hiện nay đang sống cùng bà M nên sau khi ly hôn, ông H yêu cầu Tòa án tiếp tục giao cháu N cho bà M trực tiếp nuôi dưỡng. Ông H không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Ông Trần Minh H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Ông Trần Minh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Quá trình tố tụng, bị đơn bà Trần Thị Bình M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Thống nhất với ý kiến của ông H về thời gian, điều kiện kết hôn, nơi ở của hai vợ chồng sau khi kết hôn; các nguyên nhân mâu thuẫn và thời gian vợ chồng sống ly thân. Nay bà M xác định tình cảm vợ chồng cũng không còn nữa, đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông H.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung tên Trần Ngọc A, sinh ngày 29/8/1997 và Trần Bảo N, sinh ngày 17/8/2007. Đối với cháu Trần Ngọc A đã đủ 18 tuổi nên không yêu cầu giải quyết. Khi ly hôn, cháu N sẽ do bà tiếp tục nuôi dưỡng, bà M không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà Trần Thị Bình M không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Bà Trần Thị Bình M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Quan hệ hôn nhân: Ông Trần Minh H và bà Trần Thị Bình M có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện D (nay là phường T, thị xã D), tỉnh Bình Dương theo giấy chứng nhận kết hôn số 82/KH, quyển số 08 ngày 01/7/2002 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Ông Trần Minh H và bà Trần Thị Bình M đều thống nhất xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông H thường xuyên xa nhà, không chăm lo gia đình, vợ chồng bất đồng quan điểm sống dẫn đến cãi nhau và không còn yêu thương nhau. Vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2014. Tòa án đã tổ chức phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng, tuy nhiên bà M có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng còn ông H có đơn từ chối hòa giải. Căn cứ vào lời khai của các đương sự có cơ sở xác định trong cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, tình trạng hôn nhân đã trầm trọng và cả hai đều không muốn hàn gắn. Ông H yêu cầu ly hôn, bà M cũng đồng ý nên căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của ông H.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trần Ngọc A, sinh ngày 29/8/1997 và Trần Bảo N, sinh ngày 17/8/2007. Cháu Trần Ngọc A đã đủ 18 tuổi nên không giải quyết. Khi ly hôn, bà M có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trần Bảo N. Khi giải quyết việc ly hôn, Tòa án cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho cha hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, tại bản tự khai ngày 20/4/2019 cháu Trần Bảo N có nguyện vọng được ở với mẹ khi cha mẹ ly hôn, đồng thời ông H cũng đồng ý tiếp tục giao con chung cho bà M trực tiếp nuôi dưỡng. Vì vậy, căn cứ vào Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án tiếp tục giao cháu Trần Bảo N cho bà M trực tiếp nuôi dưỡng để bảo đảm sự phát triển bình thường của con.

[2.3] Về cấp dưỡng: Bà Trần Thị Bình M không yêu cầu ông Trần Minh H cấp dưỡng nuôi con, xét đây là sự tự nguyện của bà M nên Tòa án ghi nhận.

[2.4] Tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.5] Nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Minh H phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Minh H về tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn bà Trần Thị Bình M.

1.1 Về hôn nhân: Ông Trần Minh H được ly hôn với bà Trần Thị Bình M [Giấy chứng nhận kết hôn số 82/KH, quyển số 08 ngày 01/7/2002 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện D (nay là phường T, thị xã D), tỉnh Bình Dương cấp.

1.2 Về con chung: Ông Trần Minh H có trách nhiệm giao con chung tên Trần Bảo N, sinh ngày 17/8/2007 cho bà Trần Thị Bình M trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau ly hôn, ông Trần Minh H và bà Trần Thị Bình M đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở ông, bà thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

1.3 Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của bà Trần Thị Bình M không yêu cầu ông Trần Minh H cấp dưỡng nuôi con.

1.4 Tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

1.5 Nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Minh H phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0028324 ngày 04/4/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/HNGĐ-ST ngày 15/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:38/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về