Bản án 38/2019/HNGĐ-ST ngày 02/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 38/2019/HNGĐ-ST NGÀY 02/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 02 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 193/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 154/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 03/9/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 103/2019/QĐST-HNGĐ ngày 18/9/2019 (Ấn định thời gian mở lại phiên tòa) giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Đ, sinh năm 1976 (Có mặt tại phiên tòa)

Cư trú: Thôn H, xã M, huyện H, tỉnh L.

- Bị đơn: Anh Trần Minh D, sinh năm 1979 (Vắng mặt tại phiên tòa)

Cư trú: Thôn T, xã H, huyện T, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ghi ngày 10/6/2019 của nguyên đơn là chị Phạm Thị Đ và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn trình bày:

Chị và anh Trần Minh D kết hôn ngày 30/6/2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện T, tỉnh B. Trước khi kết hôn vợ chồng chị được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn và tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán địa phương.

Sau ngày cưới thì vợ chồng chung sống với nhau tại gia đình anh D. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến tháng 8/2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh D thường xuyên chơi bời, không chịu làm ăn, vợ chồng hay đánh cãi chửi nhau và đã ly thân từ tháng 8/2015 đến nay, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn và yêu cầu Toà án nhân dân huyện Tân Yên giải quyết cho chị được ly hôn anh Trần Minh D.

Về con chung: Vợ chồng chị chưa có con chung.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản, công sức đóng góp trong thời gian ở chung, ruộng canh tác: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa chị Đ giữ nguyên yêu cầu về xin ly hôn anh D, về con chung, về tài sản chung, công nợ và án phí.

* Tòa án nhân dân h u yện Tân Yên đ ã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đối với anh Trần Minh D gồm:

Ngày 14/6/2019 tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án số 193/TB-TLVA ngày 12/6/2019 cho anh D do mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Xuân nhận thay.

Ngày 17/7/2019 tống đạt hợp lệ giấy triệu tập và quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ số 44/QĐ- CCTLCC ngày 17/7/2019 của TAND huyện Tân Yên cho anh D do mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Xuân nhận thay.

Ngày 13/8/2019 tống đạt hợp lệ giấy triệu tập và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải số 193/TB-TA ngày 12/8/2019 cho anh D do mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Xuân nhận thay.

Ngày 20/8/2019 tống đạt hợp lệ Thông báo về phiên họp hòa giải số 193/TB-TA ngày 20/8/2019 và Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ số 193/TB-TA ngày 20/8/2019 cho anh D do mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Xuân nhận thay.

Ngày 04/9/2019 tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 154/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 03/9/2019 và giấy triệu tập phiên tòa cho anh D do mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Xuân nhận thay.

Ngày 18/9/2019 tống đạt hợp lệ Quyết định hoãn phiên tòa số: 103/2019/QĐST-HNGĐ ngày 18/9/2019 cho anh D do mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Xuân nhận thay.

Anh Trần Minh D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh D không có mặt để làm việc với Tòa án về những vấn đề liên quan vụ án mà anh D là bị đơn.

Các đương sự không có chứng cứ gì khác giao nộp cho Toà án và cũng không có yêu cầu hoặc đề nghị gì khác.

* Tại biên bản xác minh ngày 20/8/2019 đối với ông Trần Minh Thiện, bà Nguyễn Thị Xuân là bố mẹ đẻ anh D và ông Nguyễn Văn Hào - là trưởng thôn T cho biết: Anh Trần Minh D là công dân có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương. Hiện nay anh D đi làm ăn, vẫn về nhà và vẫn liên lạc với gia đình. Vợ chồng chị Đ, anh D thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do anh D ham chơi, lười lao động dẫn đến cãi vã, chửi mắng nhau. Năm 2015 chị Đ chuyển về nhà bố mẹ đẻ sống, vợ chồng ly thân từ đó đến nay không còn quan tâm đến nhau và không đoàn tụ vợ chồng được.

Toà án đã mở phiên hoà giải nhiều lần để hoà giải về quan hệ vợ chồng, con chung, tài sản, công nợ, án phí nhưng anh Trần Minh D không có mặt để tham gia hòa giải.

Tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn giữ nguyên ý kiến về việc giải quyết vụ án, không có chứng cứ gì khác giao nộp cho Toà án và cũng không có yêu cầu hoặc đề nghị gì khác.

Sau phần tranh luận, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã được đảm bảo đúng quy định của pháp luật, anh D không có mặt và chấp hành chưa nghiêm túc pháp luật và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Về nội dung vụ án: Áp dụng khoản 1, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 3 Điều 144; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016. Đề nghị HĐXX, xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Đ được ly hôn anh Trần Minh D.

- Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Phạm Thị Đ phải chịu 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần 2 đối với anh Trần Minh D nhưng anh D vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt đương sự theo điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 BLTTDS.

Tòa án đã ra quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ nhưng ngoài những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thì phía bị đơn là anh Trần Minh D không nộp bản tự khai về quan hệ vợ chồng, con chung, tài sản chung, công nợ, không đến làm việc theo giấy triệu tập, không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác nên phải chịu hậu quả pháp lý.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Giữa chị Phạm Thị Đ và anh Trần Minh D xác lập quan hệ hôn nhân là tự nguyện, hai bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện T, tỉnh B, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng và được coi là hôn nhân hợp pháp.

Hi đồng xét xử xét thấy: Chị Đ, anh D có thời gian chung sống hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do anh D thường xuyên chơi bời, không chịu làm ăn, vợ chồng hay đánh cãi chửi nhau, vợ chồng anh chị không quan tâm đến nhau, mặc dù bản thân và gia đình đã tích cực hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng không được. Vì vậy, xét mâu thuẫn giữa chị Đ, anh D đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Cần chấp nhận yêu cầu cho chị Đ được ly hôn anh Trần Minh D là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Vợ chồng chị Phạm Thị Đ và anh Trần Minh D không có con chung nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản, công sức đóng góp trong thời gian ở chung, ruộng canh tác: Chị Phạm Thị Đ và anh Trần Minh D không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết [5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị Đ phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 51; Điều 56 - Luật Hôn nhân gia đình; khoản 1, Điều 28; khoản 4, Điều 147; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a, khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Đ được ly hôn anh Trần Minh D.

2. Về con chung: Vợ chồng chưa có con chung nên không đặt ra xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản, công sức đóng góp trong thời gian ở chung, ruộng canh tác: Chị Phạm Thị Đ và anh Trần Minh D không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

4. Án phí: Chị Phạm Thị Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA/2018/0005796 ngày 12/6/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang; chị Phạm Thị Đ đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt (hoặc niêm yết) bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/HNGĐ-ST ngày 02/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:38/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về