Bản án 38/2018/HSST ngày 19/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN THÀNH - BẮC NINH

BẢN ÁN 38/2018/HSST NGÀY 19/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 19 tháng 06 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 28/2018/HSST ngày 25/05/2018 đối với:

Bị cáo: Dương Văn L – Sinh năm 1999

Địa chỉ: Thôn Đ, xã N, Huyện T, Tỉnh B

Nghề nghiệp: Lao động tự do Trình độ học vấn: 6/12

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam

Con ông: Dương Văn Thuật SN 1973. Con bà: Trương Thị Thoãn SN 1975

Vợ, con: Chưa có.

Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai.

Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/03/2018 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Thuận Thành. (Có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 40 phút ngày 10/03/2018, tại quán nước của gia đình bà Nguyễn Thị L ở Phố M, thôn T, xã T, huyện T, tỉnh B Công an huyện T bắt quả tang Dương Văn L, có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: 02 gói dán ngoài bằng băng dính màu đen bên trong lớp băng dính là 02 gói nilon màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Thành đã tiến hành niêm phong tang vật nêu trên gửi đi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 361/KLGĐMT-PC54, ngày 10/03/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “Các hạt tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilon màu trắng đều được quấn ngoài bằng lớp băng dính màu đen có khối L 0,1785 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine”.

Methamphetamine là chất ma túy được quy định tại Nghị định 82/2013/NĐ- CP, ngày 19/7/2013 của Chính Phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất.”.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Thành qua đấu tranh xét hỏi bị can Dương Văn L đã khai nhận:

Bản thân L bị nghiện ma túy từ năm 2017. Khoảng 06 giờ ngày 10/03/2018, L cùng một người thanh niên không quen biết đi từ quán hát thuộc xã Xuân Lâm (L không nhớ tên quán hát) đến một quán ăn sáng gần trường May thuộc xã Xuân Lâm để ăn sáng. Sau khi ăn sáng xong, L và người thanh niên đó gọi xe taxi biển kiểm soát 30A-799.26 do anh Phan Văn Thuyên sinh năm 1993 ở thôn Công Hà, xã Hà Mãn là lái xe điều khiển đi đến quán nước của gia đình bà Nguyễn Thị Lệ ngồi uống nước. Khi vào quán nước có L, người thanh niên đi cùng và anh Thuyên. Ba người ngồi uống nước được khoảng 30 phút thì L đi ra ngoài để đi vệ sinh, khi đó người thanh niên đi cùng L cũng đi ra ngoài theo L, khi đi ra đến phía sau của quán nước thì người thanh niên đó đưa cho L 300.000 đồng và nói với L: “Cầm lấy tiền lát đi mua ma túy hộ rồi về cùng chơi”, L đồng ý. Sau đó, L cùng người thanh niên quay lại ngồi uống nước. Khoảng 5 phút sau, L bảo anh Thuyên lái xe taxi chở đến đoạn đường thuộc địa phận xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đến nơi, L xuống xe đi bộ một đoạn thì gặp một người thanh niên không quen biết đứng ở rìa đường. L lấy ra 300.000 đồng đưa cho người thanh niên đó, sau khi cầm tiền người thanh niên đưa cho L 2 gói ma túy được dán ngoài bằng băng dính màu đen. L cầm 02 gói ma túy đó cất vào túi quần bò bên phải phía trước L đang mặc, rồi quay lại xe taxi đi về quán nước. Khi về đến quán nước, L xuống xe thì bị lực lượng Công an huyện Thuận Thành kiểm tra, bắt quả tang L và thu giữ vật chứng như đã nêu trên. Còn người thanh niên đưa tiền cho L để đi mua ma túy không còn ở quán nước nữa, đi đâu L không biết.

Bản cáo trạng số: 30/CT-VKS ngày 24/05/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Thành đã truy tố Dương Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thuận Thành giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Dương Văn L theo tội danh và điều luật đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Dương Văn Lượng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Dương Văn L từ 14 đến 17 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 10/03/2018. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh. Bên ngoài phong bì có ghi “mẫu vật còn lại sau khi giám định kèm theo kết luận giám định số 361 ngày 10/3/2018 của PC 54”.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà hôm nay, phần tranh luận sau khi nghe đại diện Viện Kiểm sát công bố bản luận tội đối với bị cáo. Bị cáo không có ý kiến gì với bản luận tội của Viện Kiểm sát mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tội danh, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tại phiên toà hôm nay bị cáo Lượng khai do bị nghiện ma túy nên ngày 10/03/2018 L có đi mua ma túy về sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt. Xét thấy lời khai của bị cáo là có căn cứ phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang, tang vật đã thu giữ, kết quả giám định, lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ thấy đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Dương Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, đúng như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã xâm phạm trực tiếp tới chế độ độc quyền quản lý với các chất gây nghiện nói chung và ma tuý nói riêng của nhà nước. Bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý bị pháp luật nghiêm cấm nhưng do là đối tượng nghiện hút, để thoả mãn cơn nghiện nên ngày 10/03/2018 bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị Công an bắt quả tang cùng tang vật. Hành vi phạm tội của bị cáo chẳng những làm gia tăng tệ nạn nghiện hút trong cộng đồng dân cư mà còn gây mất trật tự trị an. Xét thấy cần xử lý nghiêm bị cáo bằng luật hình mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên xét về nhân thân bị cáo xuất thân từ gia đình lao động, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải, đây là những tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó khi L hình cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS có thể áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo, nhưng xét thấy bị cáo phạm tội là do bị nghiện ma tuý, mua về để sử dụng không nhằm mục đích thu lợi nên cần miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

Đối với người thanh niên đã đưa tiền cho L để đi mua ma túy và người thanh niên đã bán ma túy cho L, L đều không quen biết, không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu. Do vậy cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Thành không có căn cứ điều tra xác minh về hai đối tượng này để xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp.

Đối với anh Phan Văn T là người lái xe taxi chở L, anh T không biết việc L đi mua ma túy nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Thành không xem xét xử lý.

[2]. Về vật chứng: 01 phong bì có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh. Bên ngoài phong bì có ghi “mẫu vật còn lại sau khi giám định kèm theo kết luận giám định số 361 ngày 10/3/2018 của PC 54”. là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Dương Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt: Dương Văn L 13 ( Mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 10/03/2018. Tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (19/06/2018)

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh, Bên ngoài phong bì có ghi “mẫu vật còn lại sau khi giám định kèm theo kết luận giám định số 361 ngày 10/3/2018 của PC 54” là mẫu vật còn lại sau khi giám định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/06/2018 giữa Công an huyện Thuận Thành và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Thành). 

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Dương Văn L phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

432
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2018/HSST ngày 19/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:38/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về