Bản án 38/2018/HS-ST ngày 18/09/2018 về tội chống người thi hành công vụ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÚI THÀNH, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 38/2018/HS-ST NGÀY 18/09/2018 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 18 tháng 9 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Núi Thành. Toà án nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 40/2018/TLST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Anh T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 10/10/1984; HKTT + chỗ ở: Đa Ph - Tam Mỹ Đ - Núi Th - Quảng Nam.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hoá: 12/12.

Con ông: Lê Y, sinh năm: 1958 và bà Mai Thị A, sinh năm: 1961, cùng trú tại: 362A Nguyễn Văn N, phường 5, quận Gò V, Thành Phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có vợ tên Cao Thị H, sinh năm: 1984 và 02 con, lớn nhất sinh năm: 2009, nhỏ nhất sinh năm 2014.
Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 06/02/2009 bị Công an xã Tam Mỹ Đ xử phạt hình chính bằng hình thức
cảnh cáo về hành vi gây mất trật tự công cộng.
- Ngày 23/02/2009 bị Công an xã Tam Mỹ Đ xử phạt 200.000 đồng về hành vi gây mất trật tự công cộng.
- Ngày 05/3/2010 bị Công an xã Tam Mỹ Đ xử phạt 200.000 đồng về hành vi đánh nhau.

Bị cáo chưa chấp hành việc nộp phạt nhưng căn cứ Điều 7, 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì đã hết thời hiệu thi hành các quyết định xử phạt hành chính nêu trên.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: ông Lê Trí Đ, sinh năm: 1992, trú tại: thôn Thanh Tr, xã Tam Ngh, huyện Núi Th, tỉnh Quảng Nam. Có mặt

- Người làm chứng:

+ Huỳnh Đức H: sinh năm: 1990, trú tại: thôn Thanh Tr, xã Tam Ngh, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Có mặt

+ Lê Công T, sinh năm: 1992, trú tại: thôn Trường C, xã Tam T, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt

+ Mai Xuân Th, sinh năm: 1990, trú tại: khối 7 thị trấn Núi Th, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt

+ Trịnh Văn H, sinh năm: 1975, trú tại: khối 7 thị trấn Núi Th, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt

+ Bùi Thanh T, sinh năm: 1974, trú tại: thôn Đa Ph, xã Tam Mỹ Đ, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Có mặt

+ Đỗ Văn L, sinh năm: 1977, trú tại: khối 7 thị trấn Núi Th, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt

+ Lê Văn H, sinh năm: 1987, trú tại: thôn Đa Ph, xã Tam Mỹ Đ, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt

+ Bùi Bá Ch, sinh năm: 1971, trú tại: thôn Đa Ph, xã Tam Mỹ Đ, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt

+ Nguyễn Minh V, sinh năm: 1984, trú tại: thôn Hòa M, xã Tam Ngh, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Có mặt

+ Châu Ngọc Kh, sinh năm: 1961, trú tại: thôn Long B, xã Tam Ngh, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Có mặt

+ Nguyễn Tấn C, sinh năm: 1985, trú tại: thôn Định Ph, xã Tam Ngh, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt

+ Nguyễn Thành Nh, sinh năm: 1972, trú tại: thôn Long B, xã Tam Ngh, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 13/6/2018, Nguyễn Tấn C, sinh năm: 1985, trú tại: Thôn Định Ph, xã Tam Ngh, huyện Núi Th thuê một số người mang cưa máy đến khai thác keo trên đất đang tranh chấp với ông Nguyễn Thành Nh, sinh năm: 1972, trú tại: Thôn Long B, xã Tam Ngh, huyện Núi Th. Do sợ bị ông Nh ngăn cản nên C có nhờ Mai Xuân Th, sinh năm: 1990 và Trịnh Văn H, sinh năm: 1975, cùng trú tại: Khối 7, thị trấn Núi Th, huyện Núi Th đến để can thiệp và bảo vệ cho C khai thác keo. Khi người của C đang cưa cây thì ông Nh ra ngăn cản, cải nhau với nhóm người của C. Sau đó ông Nh lên UBND xã Tam Ngh báo cáo ông Nguyễn Thành Đ (Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Tam Ngh). Ông Đ đã phân công ông Nguyễn Minh V (Cán bộ địa chính xã Tam Ngh) đến kiểm kê, lập biên bản số cây bị cưa hạ trên đất đang tranh chấp và chỉ đạo cho ông Nguyễn H (Trưởng Công an xã Tam Ngh) phân công lực lượng đến hiện trường để ổn định tình hình, đảm bảo an ninh trật tự. Ông H phân công ông Lê Trí Đ (Phó Công an xã Tam Ngh) đến hiện trường để đảm bảo an ninh trật tự.

Sau khi báo cho UBND xã Tam Ngh thì ông Nh điện thoại báo trực ban Công an huyện Núi Th. Khi nhận được tin báo của ông Nh về việc tranh chấp và có khả năng xảy ra xô xát, đánh nhau thì trực ban Công an huyện Núi Th là ông Nguyễn Ngọc Q nhận đã phân công lực lượng trực chiến trong ngày là ông Huỳnh Đức H và ông Lê Công T cán Công an huyện Núi Th đến nơi xảy ra sự việc để ngăn chặn đánh nhau. Khi H và T đến hiện trường thì không thấy sự việc đánh nhau nên vào UBND xã Tam Ngh làm việc với Công an xã Tam Ngh liên quan đến sự việc mà ông Nh trình báo.

Khi ông Nh quay về nhà thì phát hiện C cùng một số người vẫn tiếp tục cưa cây keo nên ông Nh đã điện thoại cho Bùi Bá Ch, sinh năm: 1971, trú tại: Thôn Đa P, xã Tam Mỹ Đ, huyện Núi Th đến với mục đích giữ tài sản trên đất đang tranh chấp, không cho cưa cây. Lúc này, Châu đang nhậu cùng với Lê Anh T và Bùi Thanh T, sinh năm: 1974, trú cùng thôn. Khi nghe ông Nh điện thoại thì Ch cùng với T, T, đồng thời rủ thêm Đỗ Văn L, sinh năm: 1977, trú tại: Khối 7, thị trấn Núi Th và Lê Văn H, sinh năm: 1987, trú tại: Thôn Phú Q, xã Tam Mỹ Đ, huyện Núi Th cùng đi taxi xuống nhà ông Nh. Khi đến nơi, Ch gặp Th và H đều là người quen nên Ch có nói những người này đừng gây sự với ông Nh nữa. Sau đó Ch cùng nhóm của mình đi xuống biển nhậu.

Đến khoảng 15 giờ 30 cùng ngày, khi ông V và ông Châu Ngọc Kh (thôn trưởng thôn Long B) đến vị trí đất đang tranh chấp để đo đạt, kiểm tra hiện trạng thì ông Nh đang cãi nhau với người của C. Sau đó ông Nh tiếp tục điện thoại cho Ch đến hổ trợ. Khi nghe điện thoại thì Ch cùng với nhóm của mình đón taxi lên lại vị trí tranh chấp. Khi đến nơi thì T thấy Th đang cầm một cái máy cưa lốc nên T xông vào định xô xát với Th nhưng được mọi người can ngăn và kéo T ra. Thấy sự việc như vậy nên ông V dừng việc kiểm đếm, đo đạt và gọi điện thoại báo trực tiếp cho ông H. Lúc này ông H đang trên đường đi về Cơ quan thì nhận được điện thoại của ông V nên ông H gọi điện báo cáo cho ông Q (Trực ban). Ông Q phân công ông H và T tiếp tục quay lại nơi xảy ra sự việc để giải quyết không cho đánh nhau. Khi đến nơi thì ông H và T thấy T có hành vi lớn tiếng ồn ào, gây mất trật tự nên ông H có yêu cầu T dừng lại. T không hợp tác mà đã có những lời lẽ thô tục, chửi bới ông H và T. Đồng thời T dùng tay xô đẩy, đánh ông H nhưng không trúng. Lúc này, ông Lê Trí Đ (Phó Công an xã Tam Ngh) cũng có mặt. Khi thấy T xô đẩy ông H và T nên ông Đ có vào can ngăn. Khi thấy ông Đ mặc đồ Công an xã thì T nói “Công an xã tao có quyền đánh” rồi dùng tay đánh vào mặt ông Đ. Thấy sự việc phức tạp nên ông H đã điện báo cho Trực ban Công an huyện Núi Th tăng cường lực lượng để ngăn chặn sự việc đồng thời yêu cầu Lê Anh T ở lại để lực lượng Công an lập biên bản nhưng T không chấp hành mà lên xe bỏ đi.

Ông Lê Trí Đ bị Tuấn đánh vào mặt nhưng không để lại thương tích nên không yêu cầu giám định.Vật chứng hiện đang tạm giữ: 02 thẻ nhớ chứa dữ liệu liên quan đến hành vi phạm tội của Lê Anh T.

Tại Bản cáo trạng số 42/CT-VKS ngày 22/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam đã truy tố bị cáo Lê Anh T về tội: “Chống người thi hành công vụ” theo Khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự

Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự, các điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Anh T từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên toà sơ thẩm bị cáo Lê Anh T khai nhận: Vào khoảng 15 giờ 30 ngày 13/6/2018, tại thôn Long B, xã Tam Ngh, huyện Núi Th. Bị cáo có hành vi chửi bới ông Huỳnh Đức H và Lê Công T là cán bộ Công an huyện Núi Thành. Khi ông Nguyễn Trí Đ là Phó Công an xã Tam Ngh được phân công thực hiện nhiệm vụ đến ngăn cản thì bị cáo nói “Công an xã tao có quyền đánh” rồi dùng tay đánh vào mặt ông Đức.

[3] Xét lời khai nhận của bị cáo Lê Anh T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được tranh tụng công khai tại phiên toà, do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Anh T phạm tội “Chống người thi hành công vụ” theo Khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Núi Thành là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thì thấy: Bị cáo T tại thời điểm phạm tội làm người có đầy đủ năng lực để nhận thức được việc làm của mình. Nhưng do bản tính hung hăng, coi thường pháp luật, bị cáo trước đó đã có uống rượu nên không làm chủ được bản thân đã có lời lẽ chửi bới xúc phạm đến những người thực hiện công vụ là công an huyện Núi Thành và công an xã Tam Ngh được phân công để giải quyết tranh chấp đất đai và gây rối trật tự. Sau đó bị cáo đã trực tiếp dùng tay đánh vào anh Lê Trí Đ- công an xã Tam Ngh nhằm chống đối lại những người đang thực hiện nhiệm vụ được giao. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của Công an xã Tam Ngh khi thực hiện nhiệm vụ của mình theo kế hoạch đã phân công. Qua đó xâm phạm đến hoạt động quản lý của các cơ quan có thẩm quyền quản lý về trật tự trên địa bàn huyện. Hành vi của của bị cáo sẽ gây nguy hiểm cho xã hội nếu không xử lý kịp thời và cần phải xử phạt nghiêm minh bằng mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Xét về nhân thân của bị cáo: Sau khi phạm tội trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã biết ăn năn hối cãi, khai báo thành khẩn. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Về nhân thân: Ngày 06/02/2009 bị Công an xã Tam Mỹ Đ xử phạt hình chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi gây mất trật tự công cộng. Ngày 23/02/2009 bị Công an xã Tam Mỹ Đ xử phạt 200.000 đồng về hành vi gây mất trật tự công cộng. Ngày 05/3/2010 bị Công an xã Tam Mỹ Đ xử phạt 200.000 đồng về hành vi đánh nhau. Bị cáo chưa chấp hành việc nộp phạt nhưng căn cứ Điều 7, 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì đã hết thời hiệu thi hành các quyết định xử phạt hành chính. Do vậy, Hội đồng xét xử sơ thẩm thống nhất với quan điểm của Kiểm sát viên áp dụng điểm s, i Khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ khi quyết định hình phạt cho bị cáo là phù hợp với tính nhân đạo pháp luật xã hội chủ nghĩa. Xét thấy, cần phải cách ly bị cáo T ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Đối với Bùi Bá Ch, Bùi Bá T, Đỗ Văn L và Lê Văn H không có hành vi cản trở người thi hành công vụ nên không đề cập xử lý.

[6] Ông Lê Trí Đ bị bị cáo T đánh vào mặt nhưng không để lại thương tích nên không yêu cầu giám định, không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: 02 thẻ nhớ chứa dữ liệu liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo Lê Anh T nên cần phải tiếp tục tạm giữ để đảm bảo việc giải quyết vụ án. (02 thẻ nhớ hiện đang kèm theo với hồ sơ vụ án).

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 330; các điểm s, i Khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Tuyên bố bị cáo Lê Anh T phạm tội: “Chống người thi hành công vụ”

Xử phạt bị cáo Lê Anh T, 06 ( sáu ) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 14/6/2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tuyên tiếp tục tạm giữ 02 thẻ nhớ chứa dữ liệu liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo Lê Anh T để đảm bảo việc giải quyết vụ án. (02 thẻ nhớ này hiện đang kèm theo với hồ sơ vụ án).

Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội bị cáo Lê Anh T phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2018/HS-ST ngày 18/09/2018 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:38/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Núi Thành - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về