Bản án 38/2018/HNGĐ-ST ngày 17/09/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 38/2018/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 17 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 133/2018/TLST-HNGĐ, ngày 09/7/2018 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2018/QĐXX-ST ngày 22 tháng 8 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20 ngày 07 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị O; sinh năm 1982; địa chỉ cư trú: Thôn Đ1, xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Phan Văn N, sinh năm 1978; địa chỉ cư trú: Thôn Đ1, xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 27/6/2018 và bản tự khai ngày 13/7/2018 chị O trình bày: Chị tự nguyện kết hôn với anh Phan Văn N, thời gian năm 1999 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, tỉnh Hưng Yên. Nói chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 13 năm. Tuy nhiên trong quá trình sống chung mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ tháng 10/2012 do phong cách sống không còn phù hợp, nghi ngờ nhau sống không chung thủy, anh N sống không chung thủy, không có trách nhiệm đến vợ con. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau.

Đến tháng 03 năm 2017 chị đã gửi đơn xin ly hôn anh N tại Tòa án nhân dân huyện K. Sau khi Tòa án giải thích về quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật, được gia đình, địa phương khuyên giải để vợ chồng trở lại đoàn tụ, chị đã tự nguyện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện xin ly hôn anh N. Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 20/2017/QĐST-HNGĐ ngày 23/6/2017. Nhưng tình cảm không được cải thiện, mâu thuẫn giữa vợ chồng càng trầm trọng, hai người vẫn sống ly thân từ tháng 6/2017 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, chị xin ly hôn anh N.

Về con chung: Có 01 con là Phan Nhật M, sinh ngày 03/7/2000, hiện đã trưởng thành trên 18 tuổi, nên không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh N vắng mặt, nhưng theo lời trình bày và yêu cầu của chị O. Tòa án đã xác minh và tống đạt trực tiếp giấy triệu tập ; thông báo thụ lý vụ án; thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ; thông báo về phiên họp và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp của Tòa án cho trưởng thôn Đ1 và chính quyền địa phương để giao lại các văn bản tố tụng trên. Anh N đã nhận đầy đủ các văn bản tố tụng trên nhưng không đến Tòa án và Ủy ban nhân dân xã P để trình bày lời khai; tham gia phiên họp và hòa giải; từ chối khai báo, vắng mặt không có lý do chính đáng. Sau đó Tòa án đã tống đạt trực tiếp và hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho trưởng thôn Đ1 và Ủy ban nhân dân xã Đ để giao lại cho anh N. Anh N vẫn vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hộ i đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Bị đơn không chấp hành đầy đủ nghĩa vụ quy định tại khoản 15, 16 Điều 70, khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. 

Về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

1. Về tố tụng: Anh N là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

2. Về quan hệ hôn nhân: Chị O và anh N tự nguyện kết hôn năm 1999, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, tỉnh Hưng Yên. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2016 phát sinh mâu thuẫn do phong cách sống không còn phù hợp, nghi ngờ nhau sống không chung thủy, anh N sống không chung thủy, không có trách nhiệm đến vợ con. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau. Đến tháng 03 năm 2017 chị O gửi đơn xin ly hôn anh N đến Tòa án nhân dân huyện K. Sau khi Tòa án giải thích về quyền và nghĩa vụ, được gia đình, địa phương khuyên giải để vợ chồng trở lại đoàn tụ, chị đã tự nguyện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện xin ly hôn anh N. Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 20/2017/QĐST-HNGĐ ngày 23/6/2017. Nhưng tình cảm không được cải thiện, mâu thuẫn giữa vợ chồng càng trầm trọng, hai người vẫn sống ly thân, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị O xin ly hôn anh N là có cơ sở chấp nhận, nên xử cho chị O được ly hôn anh N là phù hợp.

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Đ iều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị Phạm Thị O được ly hôn anh Phan Văn N.

3. Về con chung: Anh chị có 01 con là Phan Nhật M, sinh ngày 03/7/2000, hiện đã trưởng thành trên 18 tuổ i, không yêu cầu giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy đ ịnh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị O phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Anh N là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Chị O tự nguyện kết hôn với anh N năm 1999 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, tỉnh Hưng Yên. Đánh giá chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 17 năm. Song trong thời gian sống chung mâu thuẫn phát s inh từ đầu năm 2016 do phong cách sống không còn phù hợp, nghi ngờ nhau sống không chung thủy, anh N sống không chung thủy, không có trách nhiệm đến vợ con. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau. Đến tháng 03 năm 2017 chị O gửi đơn xin ly hôn anh N tại Tòa án nhân dân huyện K. Sau khi Tòa án giải thích về quyền và nghĩa vụ, được gia đình, địa phương khuyên giải để vợ chồng trở lại đoàn tụ, chị O đã tự nguyện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện xin ly hôn anh N. Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 20/2017/QĐST-HNGĐ ngày 23/6/2017. Nhưng tình cảm không được cải thiện, mâu thuẫn giữa vợ chồng càng trầm trọng, hai người vẫn sống ly thân, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị O xin ly hôn anh N là có cơ sở chấp nhận, nên xử cho chị O được ly hôn anh N là phù hợp.

 [3] Về con chung: Anh chị có 01 con là Phan Nhật M, s inh ngày 03/7/2000, hiện đã trưởng thành trên 18 tuổi, nên không đặt ra giải quyết.

 [4] Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

 [5] Về án phí: Chị O phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ khoản 4 Điều 147; đ iểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Đ iều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị O được ly hôn anh Phan Văn N.

2. Về án phí: Chị O phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số: AA.0006099 ngày 09 tháng 7 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Chị O đã chịu đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị O có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

403
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2018/HNGĐ-ST ngày 17/09/2018 về ly hôn

Số hiệu:38/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về