Bản án 38/2018/HNGĐ-ST ngày 06/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 38/2018/HNGĐ-ST NGÀY 06/03/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 03 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 836/2017/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2017 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2018/QĐXX-ST ngày 26 tháng 01 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2018/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 02 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L sinh năm 1992; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 3, T, xã T, huyện T thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn R, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Văn C sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn 3, T, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 16/5/2017, và các li khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị L (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Trần Văn C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 18/5/2012. Vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến ngày 26/12/2016 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt và trong lao động; mặt khác anh C rượu chè, cờ bạc, chị L khuyên bo nhiều lần nhưng anh C vẫn không thay đổi dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Chị L và anh C đã sống ly thân từ tháng 12 năm 2016 cho đến nay. Chị L nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị L được ly hôn anh Trần Văn C.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị L khai: Chị và anh Trần Văn C có 02 con chung tên Trần Quỳnh A, sinh ngày 07/02/2013 và Trần Mạnh Qu, sinh ngày 03/9/2014. Hiện nay các con chung đang ở cùng với anh C. Trường hợp ly hôn, chị L có nguyện vọng để anh C tiếp tục nuôi dưỡng các con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị L yêu cầu để chị và anh Trần Văn C tự thỏa thuận giao nhận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sn chung: Chị Nguyễn Thị L khai: Chị và anh Trần Văn C không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Trần Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần song đều không đến Tòa án để trình bày quan điểm về việc chị Nguyễn Thị L có đơn xin ly hôn.

Tại biên bn lấy lời khai ngày 19/01/2018, bà Đặng Thị T là mẹ đẻ của anh Trần Văn C có lời trình bày như sau:

Về hôn nhân: Anh Trần Văn C kết hôn với chị Nguyễn Thị L trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã Thủy Triều, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng vào năm 2012. Sau cưới, chị L về ăn ở cùng với anh C tại thôn 3, T, xã T, huyện T. Vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến ngày 25/12/2016 (ngày âm lịch) thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh C có đi uống rượu về, vợ chồng xảy ra cãi mng, xô xát, chị L tức giận đã bỏ về nhà bố mẹ đ ở. Sau đó anh C có nhiều lần tìm gọi nhưng ch L đều không về. Nay chị L có đơn xin ly hôn đối với anh C, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng và bà Tĩnh đều thông báo cho anh C được biết, song vì anh C bận đi làm nên không đến Tòa án được. Bà T mong muốn Tòa án hòa giải để chị L và anh C đoàn tụ về chung sống cùng với nhau.

Về con chung: Bà Đặng Thị Tĩnh khai: Anh C và chị L có 02 con chung tên Trần Quỳnh A sinh ngày 07/02/2013 và Trần Mạnh Q sinh ngày 03/9/2014. K từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay, anh C là người trực tiếp nuôi dưỡng các con. Anh C là lao động tự do, thu nhập hàng tháng khoảng từ 5 đến 6 triệu đồng. Hàng tháng anh C đều đưa tiền lương đầy đủ cho bà nh để lo sinh hoạt và học phí cho các con. Hai con chung của anh C và chị L đều được đi học đầy đủ, phát triển bình thường về tâm sinh lý. Nay chị L có đơn xin ly hôn đối với anh C, quan điểm của bà Tĩnh là để cho anh C được tiếp tục nuôi dưỡng các con chung vì hiện nay các con đều đang ăn ở và học tập ổn định.

Về tài sn chung: Bà Đặng Thị T khai: Chị L và anh C không có tài sản chung.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị L và anh Trần Văn C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị L và anh C được ly hôn. Về con chung: Chị Nguyễn Thị L và anh Trần Văn C có 02 con chung tên Trần Quỳnh A, sinh ngày 07/02/2013 và Trần Mạnh Q, sinh ngày 03/9/2014. Xét thấy, từ khi ly thân cho đến nay anh C là người trực tiếp nuôi dưỡng các con chung, đảm bảo đ điều kiện cho các con chung phát triển bình thường; anh C có công việc và thu nhập ổn định. Đ nghị Tòa án căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình để giao cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng c hai con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung, đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn là anh Trần Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh C vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh C.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị L và anh Trần Văn C được xác lập năm 2012 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong lao động, trong sinh hoạt nên xảy ra cãi mắng ln nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn, vợ chồng hiện nay đã sống ly thân từ cuối năm 2016. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy áp dụng khoản 1 Điều 51, khon 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị L và anh C được ly hôn.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị L và anh Trần Văn C có 02 con chung tên Trần Quỳnh A, sinh ngày 07/02/2013 và Trần Mạnh Q, sinh ngày 03/9/2014. Khi ly hôn, chị L yêu cầu để anh C tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét từ khi ly thân cho đến nay, anh C là người trực tiếp nuôi dưỡng các con chung và vẫn đm bo tốt về mọi mặt, bn thân anh C có công việc và thu nhập ổn định. Vì vậy giao cho anh Trần Văn C được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung tên Trần Quỳnh A, sinh ngày 07/02/2013 và Trần Mạnh Q, sinh ngày 03/9/2014 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Trần Văn C không có ý kiến trình bày về việc này nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[5] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị L khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 -12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị L và anh Trần Văn C.

2. Về con chung: Giao cho anh Trần Văn C trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung tên Trần Quỳnh A, sinh ngày 07/02/2013 và Trần Mạnh Q, sinh ngày 03/9/2014 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị Hồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0008566 ngày 15 tháng 12 năm 2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, chị Nguyễn Thị L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị L có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Văn C có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án giao cho hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2018/HNGĐ-ST ngày 06/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:38/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về