Bản án 37/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

 BẢN ÁN 37/2021/HS-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 20 tháng 04 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2021/HSST ngày 19 tháng 03 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2021/QĐXXST-QĐ ngày 09 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo:

Vi Văn D, sinh ngày 17 tháng 9 năm 1977 tại huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Thôn Nà P, xã Nam Q, huyện Lộc B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Văn C (đã chết) và bà Hoàng Thị Y, vợ: Bàn Thị L, con có 01 con sinh năm 2006; tiền sự, tiền án: Không có; nhân thân: Không bị xử lý kỷ luật; không bị xử phạt vi phạm hành chính, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18-01-2021đến nay; có mặt.

Người chứng kiến: Ông Ninh Dẩu H, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ ngày 18-01-2021 tổ công tác Công an phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ tại khu vực đường Thân Thừa Q, phường Vĩnh T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Vi Văn D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra thu giữ trong túi áo khoác bên phải của Vi Văn D đang mặc 01 (một) gói giấy màu trắng bên trong có 01 (một) gói giấy nhỏ màu vàng kích thước 0,5cm x 1cm được bọc một lớp nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng Vi Văn D khai nhận là ma túy heroine Vi Văn D mua về để sử dụng. Ngoài ra, thu 01 (một) mẩu giấy màu trắng kích thước 8cm x 9,5cm; 01 (một) mẩu nilon màu trắng kích thước 4cm x 5,5cm.

Tại Bản kết luận giám định số 71/KL-PC09 ngày 19-01-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: "Chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng là 0,112 gam (đã trừ bì)”.

Tại Cơ quan điều tra, Vi Văn D khai nhận như sau: Bản thân Vi Văn D là đối tượng nghiện chất ma túy, khoảng 11 giờ ngày 18-01-2021, Vi Văn D đi xe ôm ra khu vực đường Lê Lợi, phường Vĩnh Trại,thành phố Lạng Sơn để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây Vi Văn D đã hỏi và nhờ một nam thanh niên khoảng 35 tuổi (không rõ tên tuổi địa chỉ) mua hộ ma túy. Vi Văn D đưa cho nam thanh niên 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) để mua ma túy và 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng) để trả công mua hộ ma túy. Vi Văn D đứng đợi khoảng 30 phút thì người này đi mua ma túy quay lại, đưa cho Vi Văn D một gói ma túy được bọc trong giấy màu trắng, Vi Văn D cất gói ma túy trên vào trong túi áo khoác phía bên phải đang mặc rồi đi bộ đến khu vực đường Thân Thừa Q, phường Vĩnh T, thành phố Lạng S để tìm mua xi lanh và nước cất thì bị phát hiện, bắt quả tang như đã nêu trên. Lời khai nhận về hành vi phạm tội của Vi Văn D là thành khẩn, phù hợp với chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Tại Cáo trạng số: 36/CT-VKSTP ngày 18-03-2021của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Vi Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Vi Văn D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vi Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Vi Văn D từ 12 đến 15 tháng tù. Căn cứ khoản 2, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định; 01 (một) mẩu giấy màu trắng kích thước 8cm x 9,5cm; 01 (một) mẩu nilon màu trắng kích thước 4cm x 5,5cm. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung vì bị cáo không có thu nhập ổn định. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã nhận thấy lỗi lầm của bản thân, bị cáo xin được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tòa án đã triệu tập người chứng kiến ông Ninh Dẩu H, tại phiên tòa hôm nay ông Ninh Dẩu H vắng mặt, trong hồ sơ đã có lời khai của ông Ninh Dẩu H. Do vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông Ninh Dẩu H theo quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ căn cứ xác định : Hồi 11 giờ ngày 18-01-2021 tại khu vực đường Thân Thừa Q, phường Vĩnh T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn, Vi Văn D đang thực hiện hành vi tàng trữ 0,112 gam ma túy Heroine để sử dụng thì bị bắt quả tang. Khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị cáo Vi Văn D có đầy đủ năng lực hành vi, do vậy, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, có đủ cơ sở kết tội bị cáo Vi Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy cũng như tệ nạn ma túy nói chung là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn xã hội khác. Hiện nay, việc đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy đang là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Chính vì vậy, mọi hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đều phải bị xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật.

[5] Về nhân thân: Bị cáo chưa bị xử phạt hành chính, tuy nhiên hiện nay bị cáo đang nghiện chất ma túy. Do đó bị cáo có nhân thân không tốt.

[6] Tiền án, tiền sự: Không.

[7] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, chỉ học hết lới 6/12 nên nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[8] Bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện nhằm phục vụ lợi ích bất hợp pháp của bản thân. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có thể giáo dục các bị cáo trở thành ng ười công dân có ích cho gia đình, xã hội và phòng ngừa chung.

[9] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thể hiện: Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản, nghiện chất ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo (biên bản xác minh ngày 19- 02-2021) [10] Đối với nam thanh niên đã đi mua ma túy cho Vi Văn D, do bị cáo không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người đó nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Về vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định bên trong có 0,095 gam Heroin là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, 01 (một) mẩu giấy màu trắng kích thước 8cm x 9,5cm và 01 (một) mẩu nilon màu trắng kích thước 4cm x 5,5cm là vật liên quan đến hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[12] Về án phí: Do bị kết án nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[13] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội đã xảy ra, đúng với các quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[14] Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn luật định theo quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ khoản 2, Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vi Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vi Văn D 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt để tạm giữ, tạm giam là ngày 18-01-2021.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định bên trong có 0,095 gam Heroin và 01 (một) mẩu giấy màu trắng kích thước 8cm x 9,5cm và 01 (một) mẩu nilon màu trắng kích thước 4cm x 5,5cm

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 18 tháng 03 năm 2021).

4. Về án phí: Bị cáo Vi Văn D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:37/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về