Bản án 37/2021/HS-ST ngày 03/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 37/2021/HS-ST NGÀY 03/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 35/2021/TLST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2021/QĐXXST- HS ngày 20 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Hà Thị H, (tên gọi khác: Không), sinh ngày 28/3/1971. Tại huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu N, thị trấn D, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn V (đã chết) và bà Hà Thị U; chồng Nguyễn Văn L và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/01/2021, tạm giam từ ngày 17/01/2021 đến nay; có mặt.

2. Hà Văn T, (tên gọi khác: Không), sinh ngày 25/4/1995. Tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn K, xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn E và bà Nông Thị S; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/01/2021, tạm giam từ ngày 17/01/2021 đến nay; có mặt.

3. Hà Văn K, (tên gọi khác: Không), sinh ngày 15/7/1986. Tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn K, xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 3/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn N (đã chết) và bà Hoàng Thị O; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Có 01 tiền sự tại Quyết định số 17/QĐ-TA ngày 28 /12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc đã áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 17 tháng, đến ngày 22/7/2019 thì chấp hành xong thời gian cai nghiện bắt buộc nhưng đến ngày 14/01/2021 bị cáo lại phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy, căn cứ khoản 2 Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính thì bị cáo chưa được xóa tiền sự; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử lý kỷ luật. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/01/2021, tạm giam từ ngày 17/01/2021 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1975. Nơi cư trú: Khu N, thị trấn D, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Hiện nay đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn trong một vụ án khác.

- Người chứng kiến:

1. Anh Đồng Văn A, sinh năm 1983; vắng mặt.

2. Anh Chu Hồng D, sinh năm 1971; vắng mặt.

3. Chị Trịnh Như R, sinh năm 1991; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 20 phút ngày 14/01/2021, tổ Công tác Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Công an xã Bảo Lâm, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn làm nhiệm vụ tại khu vực thôn P, xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn thì phát hiện 02 (hai) nam thanh niên điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 12D1- 059.41 có biểu hiện nghi vấn hoạt động tội phạm nên tổ Công tác đã dừng xe, kiểm tra và xác định được người điều khiển xe là Hà Văn T, còn người ngồi sau xe là Hà Văn K. Quá trình kiểm tra, tổ Công tác đã phát hiện tại túi quần bên trái của Hà Văn T 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, bên trong đựng 01 (một) gói giấy nhỏ màu trắng chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy nên tổ Công tác đã lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ các tang vật gồm: 01 (một) gói giấy nhỏ màu trắng có dòng kẻ, bên trong gói giấy nhỏ chứa chất bột màu trắng; 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 12D1- 059.41 đã qua sử dụng. Qua lấy lời khai, Hà Văn T và Hà Văn K thừa nhận gói chất bột màu trắng trên là ma túy Heroine của Hà Văn T và Hà Văn K vừa mua với người phụ nữ tên Hà Thị H nhà ở khu vực đường F thuộc khu N, thị trấn D, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Căn cứ lời khai của Hà Văn T và Hà Văn K, Cơ quan điều tra đã thi hành Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hà Thị H, sinh năm 1971, trú tại số nhà E, Khu N, thị trấn D, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, kết quả:

- Thu giữ trên người Hà Thị H số tiền 1.600.000 đồng (một triệu sáu trăm nghìn đồng) tiền Việt Nam, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu đỏ, số IMEI 860900040083172 đã qua sử dụng.

- Thu giữ tại giường ngủ của Nguyễn Văn L, sinh năm 1975 là chồng của Hà Thị H, những vật chứng gồm: 01 (một) gói nilon đựng 02 (hai) gói giấy nhỏ có dòng kẻ bên trong đều chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy; 01 (một) chứng minh nhân dân số 080847625 mang tên Nguyễn Văn L.

- Thu giữ tại phòng ngủ Hà Thị H những vật chứng gồm: 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong có 100 (một trăm) gói nilon nhỏ có diện 2x2 cm; 01 (một) ống hút nhựa màu xanh có một đầu nhọn, dài 08cm; 01 (một) que sắt nhỏ dài 08cm; 01 (một) chứng minh nhân dân số 082326414 mang tên Hà Thị H; số tiền 39.800.000 đồng (ba mươi chín triệu tám trăm nghìn đồng) tiền Việt Nam.

Tại Bản kết luận giám định số: 63/KL- PC09 ngày 16/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:

- Chất bột màu trắng đựng trong 01 (một) gói giấy, được niêm phong trong 01 (một) phong bì ghi „„QUẢ TANG HÀ VĂN K VÀ HÀ VĂN T‟‟ kí hiệu 01 gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,106 gam (đã trừ bì).

- Chất bột màu trắng đựng trong 02 (hai) gói giấy, được niêm phong trong 01 (một) phong bì ghi „„KHÁM XÉT HÀ THỊ H” kí hiệu 02 gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,112 gam (đã trừ bì).

Tại Bản kết luận giám định số: 122/KLGĐ-PC09 ngày 02/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Toàn bộ số tiền 41.400.000 đồng (bốn mươi mốt triệu bốn trăm nghìn đồng) tiền Việt Nam được niêm phong trong 02 (hai) phong bì gửi giám định đều là tiền thật.

Quá trình điều tra làm rõ được như sau: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 14/01/2021, Hà Văn T đi bộ từ nhà ở của mình sang nhà Hà Văn K để rủ Hà Văn K đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng thì được Hà Văn K đồng ý. Tại đây, Hà Văn K giao chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 12D1- 059.41 của mình để Hà Văn T điều khiển chở Hà Văn K đi ra nhà Hà Thị H ở thị trấn D, huyện C, tỉnh Lạng Sơn mua chất ma túy. Khi đi đến cách cửa nhà Hà Thị H khoảng 05 mét, Hà Văn T dừng xe lại thì Hà Văn K đưa cho Hà Văn T 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) tiền Việt Nam để Hà Văn T đi vào cửa nhà Hà Thị H để mua ma túy với Hà Thị H. Tại đây, Hà Thị H đã bán cho Hà Văn T 02 gói ma túy Heroine với giá 100.000 đồng/01 gói, sau đó Hà Văn T quay lại chỗ Hà Văn K đang ngồi chờ và điều khiển xe mô tô, chở Hà Văn K đi đến khu đất vắng người ở đường F, thuộc Khu N, thị trấn D, huyện C, tỉnh Lạng Sơn để cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy. Sau khi sử dụng hết 01 (một) gói chất ma túy Heroine bằng hình thức hít thì Hà Văn T cho 01 (một) gói chất ma túy Heroine còn lại vào trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long, cất vào trong túi quần bên trái đang mặc rồi tiếp tục điều khiển xe mô tô chở Hà Văn K quay về nhà. Khi đi đến đoạn đường thuộc thôn P, xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang thu giữ 01 (một) gói chất ma túy Heroine mà Hà Văn T đang giấu trên người.

Tại Cơ quan điều tra, Hà Thị H thừa nhận: Khoảng 11 giờ ngày 14/01/2021 tại trước cửa nhà ở của mình, Hà Thị H bán cho Hà Văn T 02 gói ma túy với giá 100.000 đồng/01 gói. Số ma túy này là do Hà Thị H mua của một người đàn ông không rõ tên, tuổi địa chỉ cụ thể tại khu vực chợ T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn vào khoảng 10 giờ sáng ngày 04/01/2021 với số tiền 8.500.000 đồng (tám triệu năm trăm nghìn đồng tiền Việt Nam) rồi đem về nhà chia nhỏ ra được 160 gói ma túy Heroine. Số ma túy này Hà Thị H đã bán cho nhiều người nghiện khác nhau nhưng Hà Thị H không nhớ cụ thể là bán cho ai và được bao nhiêu tiền và chỉ nhớ được bán cho Hà Văn T nhiều lần, mỗi lần 01 đến 02 gói ma túy Heroine với giá 100.000 đồng/01 gói. Còn lại 02 gói ma túy Heroine chưa kịp bán hết Hà Thị H cất giấu dưới đệm giường ngủ của chồng là Nguyễn Văn L và đã bị Công an thu giữ khi khám xét nhà.

Lời khai của Hà Văn T phù hợp với lời khai của Hà Thị H về việc Hà Văn T đã nhiều lần mua ma túy Heroine với Hà Thị H và ngày 14/01/2021 Hà Văn T mua của Hà Thị H 02 gói ma túy với giá 100.000 đồng/01 gói.

Bản Cáo trạng số: 38/CT- VKS ngày 10/5/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn K về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015; truy tố bị cáo Hà Thị H về Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn K, Hà Thị H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Văn L trình bày: Tôi là chồng của Hà Thị H ngày 14/01/2021, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét nhà chúng tôi có thu giữ trên giường ngủ của tôi 02 (hai) gói nhỏ ma túy, 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên tôi Nguyễn Văn L và thu của vợ tôi số tiền 41.400.000 đồng (bốn mươi mốt triệu bốn trăm nghìn đồng), tôi khẳng định 02 gói nhỏ ma túy và số tiền 41.400.000 đồng là của vợ tôi Hà Thị H, không phải của tôi, tôi không liên quan đến việc vợ tôi bán ma túy và cũng không biết vợ bán ma túy; còn 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên tôi Nguyễn Văn L, tôi yêu cầu trả lại cho tôi vì đây là giấy tờ tùy thân của tôi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn K phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy Tuyên bố bị cáo Hà Thị H phạm Tội mua bán trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 17, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Hà Văn T; xử phạt bị cáo Hà Văn T mức án từ 01 (một) năm đến 02 (hai) năm tù.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 17, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Hà Văn K; xử phạt bị cáo Hà Văn K mức án từ 01 (một) năm đến 02 (hai) năm tù.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, Điều 38; Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Hà Thị H mức án từ 08 (tám) năm đến 09 (chín) năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn K, Hà Thị H vì các bị cáo đều không có việc làm ổn định, không có tài sản có giá trị.

Các biện pháp tư pháp: Không.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy số ma túy đã qua giám định còn lại là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và các đồ vật không còn giá trị sử dụng; trả lại cho bị cáo Hà Thị H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu đỏ do không có liên quan đến việc mua bán trái phép chất ma túy; trả lại cho bị cáo Hà Thị H 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Hà Thị H là giấy tờ tùy thân của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội; trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Văn L 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn L là giấy tờ tùy thân của anh Nguyễn Văn L không liên quan đến hành vi phạm tội; tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 41.400.000 đồng (bốn mươi mốt triệu bốn trăm nghìn đồng) của bị cáo Hà Thị H (trong đó có 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) là tiền bị cáo bán ma túy ngày 14/01/2021 cho bị cáo Hà Văn K và bị cáo Hà Văn T; còn số tiền 41.200.000 đồng (bốn mươi mốt triệu hai trăm nghìn đồng) còn lại là tiền do bị cáo tích cóp trong thời gian bán ma túy từ đầu năm 2020 đến trước ngày 14/01/2021 mà có); đối với 01 (một) xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 12D1-059.41 mặc dù chiếc này bị cáo Hà Văn K đã dùng cùng với bị cáo Hà Văn T đi mua ma túy, tuy nhiên gia đình bị cáo Hà Văn K là hộ nghèo, cả gia đình chỉ có 01 chiếc xe duy nhất này là phương tiện đi lại của cả gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo Hà Văn K.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng các bị cáo: Các bị cáo đã nhận thấy lỗi lầm của bản thân, các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng, giải thích hướng dẫn các bị cáo về quyền tiếp cận trợ giúp pháp lý, quyền nhờ người bào chữa theo quy định. Các quyết định, hành vi tố tụng đã được thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra với Biên bản phạm tội quả tang, Lệnh bắt, khám xét khẩn cấp, phù hợp với các Kết luận giám định, lời khai người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa có đủ căn cứ xác định: Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 14/01/2021, tổ công tác Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Công an xã Bảo Lâm, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ tại khu vực thôn P, xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn thì phát hiện, bắt quả tang bị cáo Hà Văn K và bị cáo Hà Văn T đang Tàng trữ trái phép 01 (một) gói chất ma túy Heroine có khối lượng 0,106 gam (đã trừ bì), bị cáo Hà Văn K và bị cáo Hà Văn T khai nhận gói ma túy bị thu giữ là do bị cáo Hà Văn K và bị cáo Hà Văn T mua của bị cáo Hà Thị H vào khoảng 11 giờ cùng ngày tại cửa nhà của bị cáo Hà Thị H, mục đích sử dụng cho bản thân. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo Hà Thị H tại số nhà E, Khu N, thị trấn D, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, Cơ quan điều tra thu giữ tại giường ngủ của Nguyễn Văn L chồng của bị cáo Hà Thị H 02 gói ma túy Heroine có tổng khối lượng 0,112 gam (đã trừ bì). Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã chứng minh được từ đầu năm 2020, bị cáo Hà Thị H thường mua chất ma túy Heroine của một người đàn ông (không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) ở khu vực cửa khẩu T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn (khoảng 10 lần mỗi lần mua từ 4.000.000 đồng đến 8.500.000 đồng) đem về nhà chia ra thành nhiều gói nhỏ để bán cho những người nghiện kiếm lời, trong đó bị cáo Hà Thị H đã bán cho bị cáo Hà Văn T nhiều lần. Với hành vi trên, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận các các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn K phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015; bị cáo Hà Thị H phạm Tội mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đối với hành vi phạm tội của bị cáo Hà Văn T và Hà Văn K thuộc trường hợp nghiêm trọng; đối với hành vi phạm tội của bị cáo Hà Thị H thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, chúng ta đều biết ma túy là chất gây nghiện nguy hiểm do Nhà nước độc quyền quản lý, ma túy gây tổn hại về mặt kinh tế của gia đình và bản thân người sử dụng, gây hủy hoại sức khỏe của con người, suy giảm giống nòi dân tộc. Ma túy là nguyên nhân phát sinh căn bệnh thế kỷ HIV-AIDS, là nguyên nhân làm nảy sinh, gia tăng nhiều loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, gây mất trật tự, an ninh chính trị tại địa phương, gây nỗi bất bình trong quần chúng nhân dân. Hiện nay, việc đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy đang là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Chính vì vậy, mọi hành vi vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy đều phải bị xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật.

[4] Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo Hà Văn T và bị cáo Hà Văn K là đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn các bị cáo cùng cố ý thực hiện tội phạm. Các bị cáo cùng phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra và cùng phải chịu một chế tài do điều luật đó quy định, xong về nguyên tắc mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện hành vi phạm tội, về vai trò, nhân thân, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm liên quan đến bị cáo nào thì áp dụng đối với riêng bị cáo đó; còn đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo Hà Thị H là hành vi độc lập. Do vậy, bị cáo Hà Thị H phải tự chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra.

[5] Về vai trò: Trong tội danh Tàng trữ trái phép chất ma túy bị cáo Hà Văn T là người rủ bị cáo Hà Văn K đi mua ma túy về cùng sử dụng và là người trực tiếp giao dịch mua ma túy với bị cáo Hà Thị H; bị cáo Hà Văn K là người đưa xe máy, tiền cho bị cáo Hà Văn T và đi cùng bị cáo Hà Văn T mua ma túy; còn đối với Tội danh mua bán trái phép chất ma túy thì bị cáo Hà Thị H có hành vi mua, bán ma túy cho bị cáo Hà Văn T, bị cáo Hà Văn K và những người nghiện khác (bị cáo Hà Thị H không biết họ, tên, địa chỉ) để kiếm lời.

[6] Về nhân thân: Bị cáo Hà Văn T và bị cáo Hà Thị H chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị cáo Hà Văn K chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử lý kỷ luật nhưng có 01 tiền sự tại Quyết định số 17/QĐ-TA ngày 28 /12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc đã áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 17 tháng, đến ngày 22/7/2019 thì chấp hành xong thời gian cai nghiện bắt buộc nhưng đến ngày 14/01/2021 bị cáo lại phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy, căn cứ khoản 2 Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính thì bị cáo chưa được xóa tiền sự.

[7] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Hà Văn T, Hà Thị H, Hà Văn K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn K, Hà Thị H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà các bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, ngoài ra các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn K là người dân tộc thiểu số sinh sống tại xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn; bị cáo Hà Thị H có mẹ đẻ là bà Hà Thị U có thành tích tham gia kháng chiến được tặng Bằng khen nên các bị cáo đều được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[9] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đều quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, do đó các bị cáo Hà Văn K, Hà Văn T, Hà Thị H có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các biên bản xác minh có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa thể hiện: Các bị cáo đều không có công việc ổn định, không có tài sản gì có giá trị; ngoài ra gia đình bị cáo Hà Văn K thuộc diện hộ nghèo. Nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo Hà Văn K, Hà Văn T, Hà Thị H.

[10] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, b, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thấy:

[11] Đối với số ma túy đã qua giám định còn lại, 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long; 01 (một) túi nilon bên trong có 100 (một trăm) túi nilon màu trắng có diện 2x2cm; 01 (một) ống hút nhựa màu xanh; 01 thanh sắt nhỏ dài là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và là vật không có giá trị sử dụng. Tịch thu, tiêu hủy.

[12] Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO của bị cáo Hà Thị H không dùng vào việc phạm tội. Trả lại cho bị cáo Hà Thị H.

[13] Đối với 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Hà Thị H đây là giấy tờ tùy thân của bị cáo, không liên quan đến tội phạm. Trả lại cho bị cáo Hà Thị H.

[14] Đối với 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn L đây là giấy tờ tùy thân của Nguyễn Văn L, không liên quan đến tội phạm. Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn L.

[15] Đối với 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 12D1-059.41 thu giữ của bị cáo Hà Văn K mặc dù chiếc xe này bị cáo Hà Văn K đã đưa cho bị cáo Hà Văn T cùng bị cáo Hà Văn T dùng chiếc xe này đi mua ma túy, tuy nhiên gia đình bị cáo Hà Văn K là hộ nghèo, cả gia đình chỉ có một chiếc xe duy nhất là phương tiện đi lại. Do vậy, trả lại cho bị cáo Hà Văn K.

[16] Đối với số tiền 41.400.000 đồng (bốn mươi mốt triệu bốn trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Hà Thị H xác định trong số tiền này có 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) bị cáo bán ma túy ngày 14/01/2021 cho bị cáo Hà Văn K và bị cáo Hà Văn T; còn số tiền 41.200.000 đồng (bốn mươi mốt triệu hai trăm nghìn đồng) còn lại là tiền do bị cáo tích cóp trong thời gian bán ma túy từ đầu năm 2020 đến trước ngày 14/01/2021 mà có). Do vậy, tịch thu toàn bộ số tiền 41.400.000 đồng (bốn mươi mốt triệu bốn trăm nghìn đồng) của bị cáo Hà Thị H sung ngân sách Nhà nước.

[17] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Hà Thị H tại cửa khẩu T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn và những người đã mua ma túy với Hà Thị H nhiều lần. Do bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh, làm rõ. Hội đồng xét xử không xem xét.

[18] Đề nghị của Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa về về áp dụng điều luật, mức hình phạt đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử sẽ xem xét và quyết định.

[19] Về án phí: Các bị cáo bị kết án. Do đó, phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[20] Quyền kháng cáo: Các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 331 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 17, Điều 50, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Hà Văn T;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 17, Điều 50, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Hà Văn K;

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, Điều 38; Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Hà Thị H;

Căn cứ điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1, điểm a, b, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tội danh:

Tuyên bố các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn K phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tuyên bố bị cáo Hà Thị H phạm Tội mua bán phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Hà Văn T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 14/01/2021.

2.2. Xử phạt bị cáo Hà Văn K 01 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 14/01/2021.

2.3. Xử phạt bị cáo Hà Thị H 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 14/01/2021.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu, tiêu hủy số ma túy đã qua giám định còn lại là 0,089 gam chất ma túy Heroine được gói bằng giấy và được đựng trong 01 (một) phong bì thư ghi “QỦA TANG HÀ VĂN K VÀ HÀ VĂN T” ký hiệu 01 (cũ) và có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình Chiến, trợ lý giám định và hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới và vỏ giấy bao gói (cũ); số ma túy đã qua giám định còn lại là 0,092 gam chất ma túy Heroine được gói bằng giấy và được đựng trong 01 (một) phong bì thư ghi “KHÁM XÉT HÀ THỊ H” ký hiệu 02 (cũ) có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình Chiến, trợ lý giám định và hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới và vỏ giấy bao gói (cũ); 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long; 01 (một) túi nilon bên trong có 100 (một trăm) túi nilon màu trắng có diện 2x2 cm; 01 (một) ống hút nhựa màu xanh; 01 (một) thanh sắt nhỏ dài.

3.2. Trả lại cho bị cáo Hà Thị H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO cũ đã qua sử dụng và 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Hà Thị H.

3.3. Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Văn L 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn L.

3.4. Trả lại cho bị cáo Hà Văn K 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 12D1-059.41.

3.5. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 41.400.000 đồng (bốn mươi mốt triệu bốn trăm nghìn đồng) tiền Việt Nam của bị cáo Hà Thị H.

(Các vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn và được ghi chi tiết tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/4/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc và Chi cục thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn K, Hà Thị H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2021/HS-ST ngày 03/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về